Nha Trang, 27 tháng Ba, 1975. (AP Photo/Nick Ut) |
Những
ngày tháng 4 của 45 năm về trước (1975-2020), chúng tôi đang hành nghề
luật sư tại Sài Gòn (nghề tự do, nên không phải đi tù ‘tập trung cải
tạo’ sau 30-4-75). Còn hiền thê của tôi thì đang làm tại một cơ quan của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), song ngân sách trực thuộc tòa Đại
sứ Hoa Kỳ, nên lương bổng khá cao so với công chức Việt Nam tương đương
lúc bấy giờ. Vì thế gia đình các nhân viên cơ quan này, nếu muốn, đều
được cho di tản ra đảo Phú Quốc bằng máy bay, trước ngày chế độ VNCH bị
cưỡng tử vào ngày 30-4-1975.Sau này được biết, sau đó tất cả gia đình
nhân viên di tản, đã được máy bay Hoa Kỳ đưa tới đảo Guam, nhập cảnh
thẳng vào Mỹ.
Thế
nhưng gia đình chúng tôi bị kẹt lại vì hai lý do (1) tôi nhận định và
đánh giá diễn biến tình hình sai (2) và do tôi chống lại ý muốn di tản
của vợ tôi do một định kiến với người Mỹ, đúng ra là với chính quyền Mỹ.
Nhớ
lại, vào những ngày đầu Tháng 4 năm 1975, tại văn phòng chúng tôi tập
sự luật sư ba năm với các luật sư Lý Quốc Sỉnh, Trần Tân Thái và Mai Văn
Đại ở số 36 Phạm Hồng Thái, Quận Nhì Sài Gòn. Tại đây đôi khi thày trò
đã có những cuộc bàn luận có nên di tản hay không.Thày trò (trừ luật sư
Mai Văn Đại, từng là Thứ Trưởng Thông tin Nội các Nguyễn Cao Kỳ, di tản
sớm, có lẽ biết rõ tình hình, hiện đang sống tại Hoa Kỳ) đều có nhận
định chung như nhiều người lúc đó, rằng Mỹ không thể bỏ Việt Nam vì đã
đầu tư quá nhiều tài lực, nhân lực cho cuộc chiến ngăn chặn sự bành
trướng của cộng sản tại Việt Nam. Maitre (thầy) Trần Tân Thái lúc đó cho
rằng nếu Mỹ có bỏ thì cũng còn lâu. Vì ở Kamphuchia yếu hơn VNCH mà còn
cầm cự được vài ba năm mới sụp đổ. Nhưng nếu lỡ kẹt lại, sống không nổi
dưới chế độ cộng sản, thì tìm đến ‘nơi không còn chiến tranh, không hận
thù’ (ý nói tự tử chết là cùng. Thực tế,sau gia đình ls Thái vượt biên
qua Mỹ, nay đã mất))…
Thành
ra, trong khi nhiều người xôn xao, chạy đôn chạy đáo, tìm đường di tản,
chúng tôi ngày ngày vẫn khoác áo ra Tòa, chép hồ sơ, biện hộ cho các
thân chủ; vẫn nhận giấy tờ hộ tịch, bằng cấp của những người chuẩn bị di
tản để đưa các thông dịch viên hữu thệ tại Tòa chuyển dịch ra tiếng Mỹ,
tiếng Pháp… Còn vợ tôi lúc đó mới sinh con đầu lòng vào ngày 7-4-1975 ở
nhà bảo sanh tư Đức Chính trên đường Cao Thắng, quận 3 Sài Gòn. Một vài
ngày sau, từ nhà bảo sanh này, chúng tôi nhìn thấy nhiều người đổ xô ra
đường nhìn về hướng có tiếng nổ và cột khói bốc cao bàn tán, thắc mắc
không biết chuyện gì. Sau này mới biết đó là cuộc ném bom vào dinh độc
lập của phi công Nguyễn Thành Trung, Việt cộng nằm vùng trong không quân
VNCH thực hiện.
Sau
ba ngày sinh con, tôi đã đưa vợ con mới sinh về sống tại nhà cha mẹ vợ
trên đường Tô Hiến Thành, Quận 10, Sài Gòn cho bên ngoại tiện chăm sóc.
Khoảng hơn một tuần sau, bất chấp thời kỳ ở cữ, vợ tôi đã phải đến sở
làm liên lạc thì được biết nhiều gia đình nhân viên đã được máy bay chở
ra Phú Quốc. Vợ tôi về báo và năn nỉ tôi phải di tản, dù con mới sinh
chưa đầy tháng. Nhưng lúc đó tôi đã cự tuyệt, do đánh giá sai tình hình
cũng có, mà do thâm tâm tôi từ lâu có định kiến ‘chống Mỹ’, không phải
để ủng hộ Việt cộng, mà chỉ vì bất bình việc Hoa Kỳ đã ngày càng vi phạm
chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, làm mất chính nghĩa chống cộng
của chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam (Sau này khi hoạt động
trong Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam bị bắt cầm tù, tôi cũng nói rõ quan
điểm này với công an chấp pháp (hỏi cung), rằng đôi lần tham gia biểu
tình chống Mỹ, không phải với ý thức ủng hộ ‘cách mạng’). Vì vậy lúc đó
tôi đã nói với vợ tôi câu này ‘qua Mỹ ăn bơ thừa sữa cặn của Mỹ à? Giả
như có kẹt lại thì có sao, Việt cộng cũng là người Việt Nam mà?’. Thực
tế đã không phải như vậy. Vì thế sau này, sống dưới chế độ Việt cộng khổ
quá, vợ tôi vẫn hay nhắc lại câu nói của tôi như một trách cứ ‘thà ăn
bơ thừa, sữa cặn của Mỹ mà được sống tự do, còn hơn là phải ăn độn ngô
khoai, sắn, lại mất tự do’.
Chính
vì nhận thức sai lầm do định kiến, nên tôi đã không quan tâm đến nỗi
khổ và công khó của vợ tôi trong những ngày tháng tư năm xưa. Vợ tôi dù
mới sinh, vẫn phải chạy đi chạy lại liên lạc với sở làm cho đến hạn
chót, để biết tình hình. Khi thấy không thể thuyết phục được chồng, dù
cả bằng nước mắt, nàng đã phải đến Tòa Đại sứ Hoa Kỳ lãnh tiền thâm niên
được khoảng $1000. Sau đó vợ tôi đưa cho người dì ruột chuẩn bị cùng
gia đình vượt biên rất sớm, trong những ngày đầu sau ‘giải phóng’, để
được đưa lại 3 cây vàng; nhờ đó bán dần vượt khổ, vượt khó trong những
tháng năm đầu sống dưới chế độ mới, được dân gian ca dao hóa ‘Lao động
là vinh quang, lang tháng thì chết đói, hay nói thì ở tù, lù khù đi kinh
tế mới!’.
Sau
khi lãnh tiền thâm niên. Nơi làm việc của vợ tôi thì đã đóng cửa sau
hạt chót di tản gia đình nhân viên ra Phú Quốc, qua đảo Guam đến Hoa Kỳ
(môt số gặp lại đang sống ở Houston, TX, Hoa Kỳ).Vợ tôi lại năn nỉ tôi
theo người anh con bác ruột có ghe từ Phan Thiết chạy về Sài Gòn đang
chuẩn bị ra khơi vượt biên (hiện đang sống tại New Orleans, Louisiana).
Nhưng tôi vẫn không nghe. Sau này vợ tôi kể lại,ông anh này nói cứ đem
con đi theo gia đình anh, rồi tôi sẽ tìm đường đi sau. Nhưng vì sợ chia
lìa, gia đình phân tán, nên nàng đã không nghe theo.Cảm ơn Thượng Đế,
nếu không thì tình cảnh gia đình tôi nay đã khác; tương tự như nhiều gia
đình vợ chồng kẻ ở lại, người di tản…
Trong
khi tình hình xã hội, chính trị và quân sự biến chuyển rất nhanh. Thủ
đô Sài Gòn tập trung đông đảo những quân dân, cán chính VNCH từ các tỉnh
Miền Trung, cao nguyên Trung phần đổ về sau quyết định của Tổng Thống
Thiệu ‘di tản chiến thuật’, rút khỏi Quân Đoàn I, rồi Quân Đoàn II; với
tốc độ rút quân nhanh hơn tốc độ tiến quân của Việt cộng, đến độ đối
phương không có người và cũng không cần người tiếp quản.Rốt cuộc ‘Di tản
chiến thuật’ trên thực tế đã trở thành một cuộc tháo chạy tán loại, góp
phần làm chế độ sụp đổ nhanh hơn.
Tại
Sài Gòn, người ta chạy đôn chạy đáo tìm đường di tản bằng đường biển
thì ra bến Bạch Đằng để chen lấn nhau lên các tàu hải quân hay tàu dân
sự; bằng hàng không thì kéo vào sân bay Tân Sơn Nhứt, bất chấp pháo kích
của Việt cộng để ngăn cản di tản; như họ từng dùng mọi cách, dù tàn
nhẫn, để ngăn cản người dân Miền Bắc di cư lánh nạn cộng sản vào Miền
Nam sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước. Nghe nói, một máy bay
chở những đứa trẻ con lai đã bị nổ tung khi vừa cất cánh, không biết do
trúng pháo kích hay do đặc công Việt cộng đặt chất nổ?
Sài
gòn những ngày Tháng Tư năm 1975 như cảnh chợ chiều, đầy hỗn loạn, như
rắn mất đầu. Người dân hoang mang lo sợ về một tương lai vô định. Các
quan chức chính quyền, tướng tá quân đội có điều kiện thì mạnh ai nấy đã
tìm đường di tản sớm, muộn bằng mọi cách.
Người
lãnh đạo cao nhất chế độ VNCH là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, dưới áp
lực của Mỹ, đã từ chức muộn màng vào ngày 5-4-1975, trao quyền cho Phó
Tổng Thống Trần Văn Hương với lời hứa trở lại vị trí chiến đấu bên cạnh
binh sĩ. Nhưng ngày 21-4-1975, trước khi kịp lưu vong, ông Thiệu đã đọc
một bài diễn văn trên truyền thanh truyền hình gay gắt tố cáo muộn màng
Hoa Kỳ phản bội đồng minh. Tổng Thống Trần Văn Hương cử Chủ tịch Quốc
hội VNCH Nguyễn Bá Cẩn thành lập chính phủ tồn tại ít tuần lễ. Trước áp
lực tình thế, ngày 28-4-1975, Tổng Thống Trần Văn Hương, được lưỡng viện
quốc hội VNCH cho phép cử Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống, Chủ
tịch Thượng viện Luật sư Nguyễn Văn Huyền là Phó Tổng thống, ngoài dự
liệu của Hiến Pháp VNCH. Gíáo sư Vũ Văn Mẫu được cử làm Thủ tướng thành
lập ‘chính phủ hòa giải dân tộc’. Như để chứng tỏ chính phủ mới hoàn
toàn độc lập với Hoa Kỳ, Thủ tướng Mẫu đã ra lệnh cho tất cả người Mỹ
phải rời khỏi Việt Nam trong 48 giờ. Đồng thời ra lệnh thả hết các tù
nhân chính trị, hầu hết là Việt Cộng. Thế nhưng, những động tác giả này
cũng chỉ giúp chính phủ Vũ Văn Mẫu tồn tại không quá 3 ngày; thì chiếc
xe tăng đầu tiên của cộng sản Bắc Việt đã ủi sập cổng dinh Độc Lập lúc
11:30 ngày 30-4-1975, tiến vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn
Minh trịnh trọng giới thiệu:
-
‘Toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều có mặt đợi các ngài đến để
bàn giao chính quyền’. Nhưng đã được một cán bộ Việt cộng trả lời:- ‘
Các ông còn gì nữa để bàn giao! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện!’.
Khi
đọc những lời tường thuật trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy
tội nghiệp cho Tướng Dương Văn Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn
chọn ông làm công việc “Khai sơn phá thạch”, nôm na là làm công việc
lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả. Tướng Minh đảo chánh TT.
Diệm, khai tử Đệ nhất VNCH, để Tướng Nguyễn Khánh làm Thủ Tướng, rồi
Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống. Nay nhận lãnh làm Tổng Thống 3 ngày
để bàn giao chính quyền Đệ Nhị VNCH cho Cộng sản Bắc Việt… có phải chỉ
là kẻ lót đường cho kẻ khác gặt hái thành quả trên lưng mình?
Phần
chúng tôi, dù bị kẹt lại sau ngày 30-4-1975, nay cuộc chiến Quốc-Cộng
kết thúc 45 năm rồi, nhưng không cảm thấy ân hận vì bị kẹt lại, dù có cơ
hội di tản rất sớm và an toàn. Vì trong cái rủi cũng có cái may, với cá
nhân tôi và gia đình cũng như nhiều gia đình, người Việt Nam khác.
Với
cá nhân, là nhờ kẹt lại hơn 17 năm (1975-1992) tôi mới có cơ hội trải
nghiệm để biết rõ chế độ độc tài toàn trị cộng sản từ lý luận đến thực
tiễn. Để hiểu rõ vì sao người ta coi cộng sản là một hiểm họa và vì sao
người ta sợ hãi và tìm mọi cách, bằng mọi gia, kể cả mạng sống, để trốn
chạy chế độ cộng sản; không chỉ ở Việt Nam mà ở bất cứ nước nào không
may có chế độ cộng sản.
Đồng
thời cũng từ đó và nhờ đó tôi được nếm đủ mùi đời, có thêm nhiều chất
liệu sống trong và ngoài nhà tù của chế độ mệnh danh ‘Cộng hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam’ để viết bao lâu nay; như kinh nghiệm sống, hữu ích
cho những ai còn mơ hồ hay muốn biết thực chất cũng như thực tế chế độ
xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản mà đỉnh cao là
‘Thiên đường cộng sản’ là gì?
Mặt
khác, với cá nhân tôi, đến Hoa Kỳ năm 1992 theo diện đoàn tụ gia đình,
sau 27 năm được sống trên đất nước này, tôi đã thấy nhận thức sai lầm
trước đây về nước Mỹ do định kiến với chính quyền Mỹ thời chiến tranh
Quốc-Cộng tại Việt Nam (1954-1975).Thực tế gia đình chúng tôi cũng như
tất cả những người Việt Nam di tản, vượt biên hay đến Mỹ bất cứ cách
nào, đã được định cư trên đất nước này, không hề phải ‘ăn bơ thừa sữa
cặn của Mỹ” như tôi lầm tưởng trước đây. Tất cả được ăn, được hưởng tất
cả những gì mà người bản xứ được ăn, được hưởng một cách tự do, bình
đẳng trên mọi lãnh vực đời sống, sinh hoạt xã hội về pháp lý cũng như
thực tế.
Sau
cùng, trong cái rủi, có cái may lớn nhất cho đại thể là nhờ ‘Việt cộng
giải phóng Miền Nam’ mà đã có thực tế kiểm nghiệm nhận định của Tướng
độc nhãn Moise Dayan Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, phát biểu sau một
chuyến thăm chiến trường Miền Nam; cũng như Sir Thompson, cố vấn về du
kích chiến cho quân đội Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Việt Nam, đại ý rằng
‘muốn chiến thắng Việt cộng, chỉ còn cách cộng sản hóa Việt Nam’. Thực
tế, sau khi cộng sản Bắc Việt cộng sản hóa cả nước, quả thật nhiều người
Việt Nam mới tỉnh ngộ và các thế hệ con cháu chúng ta mới được đổi đời.
Sự
đổi đời xuất phát từ thay đổi môi trường sống. Từ phải sống trong một
đất nước nghèo nàn, lạc hậu, với chế độ độc tài toàn trị cộng sản, ở
tầng đáy của nền văn minh nhân loại; con cháu nhiều thế của chúng ta nay
đã và đang dược sống trên một đất nước giấu mạnh, với chế độ dân chủ
pháp trị bậc nhất, ở thóp đỉnh của nên văn minh nhân loại.Đồng thời,
ngoài con cháu giai cấp cán bộ đảng viên CS cầm quyền, ngày nay nhiều
con cháu dân thường trong nước, đã có cơ hội du học tại Hoa Kỳ và các
nước dân chủ văn minh khác trên thế giới, đã và đang góp phần làm tiêu
vong từng bước chế độ độc tài toàn trị ‘Đỏ vỏ, Xanh lòng’ để mau kết
thúc tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Vì đó là chiếu hướng phát triển
tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam,không thể đảo ngược.Việt Nam
sớm muộn nhất định phải có tự do, dân chủ theo đúng ý nguyện của quốc
dân Việt Nam.
Thiện Ý
(VOA)
Không có nhận xét nào