Trong khi Mỹ và các nước phương Tây đang phải tập trung đối phó với đại dịch coronavirus bùng phát với hệ quả khó lường, thì Trung Quốc tranh thủ thời cơ mở chiến dịch tuyên truyền với “ngoại giao khẩu trang”, và tiếp tục “ngoại giao pháo hạm” tại Biển Đông. Đó là nước cờ mạo hiểm của Trung Quốc nhằm “đục nước béo cò” và “ngư ông đắc lợi”.
Tuyên truyền phản tác dụng
Chiến dịch tuyên truyền và “ngoại giao khẩu trang” của Trung Quốc nhằm ba mục đích chính. Một là để đánh lạc hướng dư luận về coronavirus xuất xứ từ Vũ Hán mà họ đã phủ nhận. Hai là ca ngợi mô hình chống dịch của họ đã thành công. Ba là tuyên truyền cho “quyền lực mềm” của Trung Quốc đã đối phó thắng lợi với đại dịch, nay đang giúp các nước.
Theo các chuyên gia, chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc theo kiểu Liên Xô cũ trong chiến tranh lạnh, tuy “hùng hổ nhưng vụng về” (aggressive but clumsy), nên có thể “phản tác dụng” (backfiring). Bắc Kinh muốn đánh bóng và đánh tráo hình ảnh Trung Quốc (đang xấu đi), để lấy lòng dân trong nước (đang bất bình) và dư luận quốc tế (ngày càng bất lợi).
Có mấy lý do chiến dịch tuyên truyền của họ sẽ phản tác dụng. Một là sau bước đầu chập chững, các nước EU bắt đầu đoàn kết để chống đại dịch. Về lâu dài,Trung Quốc không thể lợi dụng tình trạng mất đoàn kết của Châu Âu để tuyên truyền rằng “chỉ có Trung Quốc giúp”. EU vừa tuyên bố là “Pháp và Đức đã giúp Ý số khẩu trang còn nhiều hơn Trung Quốc”.
Hai là EU bắt đầu phản công lại chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc. Josep Borrell (phụ trách đối ngoại của EU) đã lên án thông tin thất thiệt của Trung Quốc, làm Hoa Vi cắt giảm chương trình tài trợ khẩu trang cho EU. Ngày 26/3, EC kêu gọi Châu Âu phải tham gia “trận chiến truyền thông” để chống lại tuyên truyền thất thiệt của Trung Quốc.
Ba là các thiết bị y tế chất lượng kém của Trung quốc đã làm dư luận Châu Âu phản ứng mạnh. Một số nước như Tây Ban Nha, Hà Lan, Cộng hòa Séc, đã trả lại các bộ xét nghiệm (test kits) do Trung Quốc sản xuất, trong khi một số nước khác cũng trả lại khẩu trang Trung Quốc. EC vừa đưa ra các chỉ đạo mới để kiểm soát chất lượng hàng hóa y tế thiết yếu.
Bốn là tâm trạng nghi ngờ Trung Quốc của người Châu Âu không giảm vì những lo ngại sâu sắc về ảnh hưởng kinh tế và chính trị do Trung Quốc trỗi dậy. Điều đó phản ánh quan điểm cứng rắn trong các nước EU mà cách đây một năm, tài liệu “Chiến lược của EU đối với Trung Quốc” (EU Strategy paper on China) đã đề cập tới “như là đối thủ” (systemic rival).
Tóm lại, trước mắt Trung Quốc có thể ghi điểm với một số chính phủ dân túy, nhưng về lâu dài, chiến dịch tuyên truyền của họ không thay đổi được hình ảnh. Nếu Bắc Kinh muốn cải thiện quan hệ với Châu Âu, họ phải minh bạch về cách đối phó với coronavirus, không tuyên truyền thất thiệt và chính trị hóa tài trợ y tế. (No, Covid-19 Isn’t Turning Europe “Pro China”, Erik Brattberg and Philippe Le Corre, Belfer Center, Harvard, April 15, 2020).
Biển Đông lại nổi sóng
Theo Reuters, từ 16/4/2020, tàu khảo sát HD-8 và các tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã bám theo và quấy rối tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) đang thăm dò dầu khí trên thềm lục địa kéo dài về phía nam quần đảo Trường Sa. Theo MarineTraffic (23/4) tàu HD-8 vẫn đang trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, cách Borneo khoảng 336km.
Trong khi tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và USS Ronald Reagan đang bảo trì và cách ly tại cảng (Guam và Nhật) vì nhiều thủy thủy bị lây nhiễm coronavirus, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc đang hoạt động gần bãi cạn Macclesfield. Trung Quốc định bắt nạt Malaysia như họ đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính (năm 2019).
Theo Greg Poling (AMTI director/CSIS) ngày 20/4, các tàu tuần dương USS Bunker Hill, tàu đổ bộ USS America, tàu khu trục USS Barry (của Mỹ) và tàu khu trục HMAS Parramatta (của Úc) đã tập trận tại vùng biển tranh chấp giữa Malaysia và Trung Quốc, gần nơi tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) và tàu HD-8 của Trung Quốc đang hoạt động.
Ngày 23/4, Malaysia đã tuyên bố cam kết bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông. Ngoại trưởng Hishammuddin Hussein của Malaysia nói, “Trong khi luật pháp quốc tế đảm bảo quyền tự do hàng hải, sự hiện diện của tàu chiến và tàu cảnh sát biển ở Biển Đông có khả năng làm gia tăng căng thẳng, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực”.
Trong khi Bộ Quốc phòng Mỹ điều tàu sân bay USS Harry Truman từ Trung Đông sang vùng Indo-Pacific để tăng cường cho hạm đội Thái Bình Dương, thì Không quân Mỹ lại dừng hoạt động của các máy bay ném bom chiến lược tầm xa tại Guam, vì dịch coronavirus. Các lỗ hổng chiến lược của Mỹ ở khu vực là cơ hội để Trung Quốc bành trướng. (China lays ever larger claim to South China Sea, Richard Heydarian, Asia Times, April 21, 2020).
Theo Nicole Schwegman (spokeswoman, US Indo-Pacific Command), với sự có mặt và hoạt động của Mỹ ở Biển Đông, “chúng ta đang phối hợp với các đồng minh và đối tác để đảm bảo tự do hàng hải và hàng không, cũng như các nguyên tắc quốc tế về an ninh và thịnh vượng ở Indo-Pacific…Mỹ ủng hộ đồng minh và đối tác vì lợi ích kinh tế của họ”.
Nhưng có một nghịch lý là chính phủ các nước khu vực vẫn lo ngại về “thói quen của Mỹ” là tuy họ xuất hiện tại các điểm nóng nhưng rồi lại rút, để các nước khu vực tự đối phó với Trung Quốc ngày càng mạnh. (US Warships Enter Disputed Waters of South China Sea as Tensions With China Escalate, Hannah Beech, New York Times, April 21, 2020).
Peter Jenning (Director, Australian Strategic Policy Institute) cho rằng trong khi phải đối phó với dịch coronavirus, Trung Quốc vẫn không giảm mà còn tăng cường hoạt động quân sự tại Biển Đông. Theo Jennings, “Ý đồ chiến lược của Trung Quốc là phải tranh thủ tối đa cơ hội khi Mỹ đang bị phân tâm và mất khả năng gây sức ép với các nước khu vực”.
Theo Alexander Vuving (APCS, Honolulu), tuy Trung Quốc phải chống dịch bùng phát, nhưng họ vẫn tư duy theo các mục tiêu chiến lược lâu dài của mình. Trung Quốc muốn tạo ra tình huống “bình thường mới” (new normal) ở Biển Đông nơi họ đang làm chủ. Và để làm điều đó, họ trở nên “ngày càng hung hăng hơn” (more and more aggressive).
Joshua Kurlantzick (CFR) cho rằng Trung Quốc lợi dụng lúc Mỹ và đồng minh phương Tây đang lo đối phó với đại dịch, để bắt nạt các nước khu vực vì lợi ích trước mắt, sẽ làm phương hại cho mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là phải lấy lòng các nước. Nhưng việc Mỹ bị phân tâm và mất khả năng đối phó là cơ hội quá hấp dẫn với Trung Quốc. (COVID19 and the South China Sea, Joshua Kurlantzick, Council on Foreign Relations, April 22, 2020).
Tam chủng chiến pháp
Chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông là chờ thời cơ, dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988). Sau đó, họ “thay đổi thực địa” (changing facts on the ground) bằng cách bồi đắp các đảo nhân tạo vả quân sự hóa thành các “cứ điểm” (outposts). Họ từng bước lấn chiến như “tầm ăn dâu” để thành “chuyện đã rồi” (fait accompli).
Trung Quốc áp dụng “Tam chủng Chiến pháp” (tâm lý, pháp lý, tuyên truyền). Về tâm lý, họ hành xử kiểu “nước lớn” bắt nạt “nước bé”, gây tâm lý lo sợ bị trừng phạt. Về pháp lý, họ dựa vào sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế. Về tuyên truyền, họ áp đặt những gì có lợi cho mình, sẵn sàng “đổi trắng thay đen” và “biến không thành có”, làm thật giả lẫn lộn.
Để hợp pháp hóa việc chiếm đóng và khẳng định chủ quyền (phi pháp) ở Biển Đông, năm 2012 Trung Quốc lập ra “thành phố Tam Sa” (Sansha), đặt trụ sở tại đảo Phú Lâm (Woody island tại Hoàng Sa). Họ di dân đến đó sinh sống và phát triển du lịch để có bộ mặt “dân sự”. Ngày 18/4, họ lập ra quận đảo Nam Sa (Nansha) và Tây Sa (Xinsha). Ngày 19/4, họ đặt tên tiếng Trung cho 25 đảo, bãi đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy Biển Đông (một cách phi pháp).
Năm ngoái (7-10/2019), tàu khảo sát HD-8 và các tàu hải cảnh hộ tống của Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền và quấy rối hoạt động dầu khí của Việt Nam gần Bãi Tư Chính và trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Họ đã gây ra “đối đầu” (standoff) và khủng hoảng Biển Đông (lần thứ hai) buộc các tàu cảnh sát biển của Việt Nam phải bám sát để ngăn chặn.
Ngày 12/12/2019, sau khi Malaysia gửi LHQ hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, thì cùng ngày 12/12, Trung Quốc gửi LHQ Công hàm phản đối Malaysia. Ngày 6/3/2020, sau khi Philippines gửi LHQ hai Công hàm trình bày quan điểm và phản đối các yêu sách của Trung Quốc, thì ngày 23/3 Trung Quốc gửi LHQ Công hàm đáp lại Philippines. Ngày 14/4/2020, Việt Nam gửi LHQ thêm hai Công hàm để đáp lại quan điểm của Malaysia và Philippines.
Ngày 20/03/2020, Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu trên đảo đá Chữ Thập và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc còn tiến hành tập trận tại Biển Đông (tháng 3/2020). Ngày 02/04/2020, tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa, và vu cáo tàu đánh cá Việt Nam đâm vào tàu hải cảnh của họ.
Ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi LHQ Công hàm khẳng định chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, và phản đối các lập luận vô lý của Trung Quốc tại biển Đông trong các Công hàm trước đó. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi LHQ Công hàm đáp trả Công hàm của Việt Nam, trong đó có những lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Nói cách khác, “cuộc chiến công hàm” này là một phần của “Tam chủng Chiến Pháp” (Three Warfare Doctrine).
Công hàm của Việt Nam gửi LHQ ngày 30/3/2020 nhằm (1) phản biện các yêu sách của Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, (2) khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, (3) khẳng định Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất quy định phạm vi vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo các chuyên gia về luật biển, Công hàm của Trung Quốc (17/4) có lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Vì vậy, trong bối cảnh khó lường hiện nay, Việt Nam phải cảnh giác đề phòng Trung Quốc có thể nghi binh để dùng vũ lực (tàu hải cảnh và “dân quân biển”) uy hiếp các giàn DK gần Bãi Tư Chính, hoặc hạ đặt một cấu trúc nảo đó để lấn chiếm tại bãi Ba Đầu (thuộc cụm Sinh Tồn) như họ đã làm tại bãi cạn Scarborough của Philippines (2012).
Đồng thuận ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, Trung Quốc sẽ tranh thủ lợi thế so sánh ở Biển Đông để bắt nạt các nước ASEAN. Lực lượng chủ lực của Trung Quốc tại Biển Đông vẫn là tàu hải cảnh và “dân quân biển” để biến vùng không có tranh chấp thành “khu vực tranh chấp cường độ thấp” (low intensity conflict) trong vùng xám (grey area) để tránh xung đột với Mỹ.
Trong khi chính quyền Trump chủ trương “American First”, bỏ rơi TPP và giảm cam kết khu vực, thì ASEAN bị phân hóa thành mấy nhóm nước có mức độ độc lập hay lệ thuộc vào Trung Quốc khác nhau. Do đó, đồng thuận ASEAN ngày càng yếu, trong đàm phán về COC cũng như trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung tác động đến quan hệ Mỹ-ASEAN.
Sau khủng hoảng chính trị tại Kuala Lumpur, ông Mahathir Mohamed đã thất bại và ông Muhyiddin Yassin lập chính phủ mới (1/3/2020). Nếu Bắc Kinh định đảo ngược xu thế “thoát Trung” của chính phủ Mahathir, họ sẽ ép Malaysia rút tàu khoan West Capella khỏi lô ND1 như đã ép Việt Nam rút giàn khoan Hakuryu khỏi lô 06-1 gần bãi Tu Chính.
Để bù vào khoảng trống quyền lực của Mỹ ở khu vực, cần tăng cường vai trò an ninh tập thể của “Tứ cường” Mỹ, Nhật, Ấn, Úc (Quad), liên kết với các nước ASEAN có tranh chấp tại Biển Đông (như Việt Nam, Indonexia, Malaysia, Philippines). Cấu trúc an ninh này là cơ sở giúp Nhật có chính danh để tăng cường vai trò hợp tác an ninh tại Biển Đông.
Cho đến nay, hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam đã bị đình trệ, nguồn thu từ dầu khí bị giảm sút nghiêm trọng do không có dự án mới. Chỉ còn vài dự án cũ của Vietsovpetro tại Nam Côn Sơn là vẫn hoạt động. Trong khi đó, ExxonMobil (Mỹ) vẫn chưa triển khai dự án khí Cá Voi Xanh (lô 118). Năm ngoái, có tin đồn ExxonMobil định rút khỏi Việt Nam do sức ép ngầm của Trung Quốc hoặc do trục trặc về thủ tục dự án và giá bán khí.
Nếu Trung Quốc phân hóa được ASEAN như tách bó đũa để bẻ từng chiếc (chỉ đàm phán song phương chứ không đa phương) và gạt được Mỹ và đồng minh ra khỏi khu vực, để họ độc chiếm Biển Đông, thì tương lai ASEAN dễ bị “Ban Căng hóa” (Balkanization). Nói cách khác, Việt Nam và các nước ASEAN dễ trở thành chư hầu lệ thuộc vào Trung Quốc. Nhưng nếu Trung Quốc càng gây sức ép với Việt Nam thì họ càng xô đẩy Việt Nam gần Mỹ.
Theo Michael Green (CSIS) chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc tuy hùng hổ nhưng tỏ ra vụng về, chắc sẽ không hiệu quả. Cách đề cập của Bắc Kinh có vẻ bất lực, chứng tỏ sự bất an, không đối phó được với sự bùng phát”. (The Pandemic Won’t Make China the World’s Leader, Michael Green and Evan Medeiros, Foreign Affairs, April 15, 2020).
Theo Minxin Pei (Claremont McKenna College), Trung Quốc bị vây hãm bởi kinh tế đình đốn và xã hội ngày càng bất an từ bên trong và cạnh tranh nước lớn với bên ngoài, nên dễ bị đổ vỡ. Trung Quốc chắc phải tìm cách tháo gỡ, nhưng đang suy thoái dần, và sẽ lan rộng nhanh chóng. (China’s Coming Upheaval, Minxin Pei, Foreign Affairs, May/June 2020).
***
Trung Quốc vừa chống dịch coronavirus, vừa tiếp tục bắt nạt các nước ASEAN để độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ. Việt Nam và ASEAN cũng phải vừa chống đại dịch, vừa đối phó với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình tại Biển Đông. Nói cách khác, các nước ASEAN phải đoàn kết vì “đồng thuận ASEAN” để chống cả hai, trong khi Việt Nam phát huy vai trò tích cực của mình là Chủ tịch ASEAN trong năm 2020 và 2021.
Tham khảo
Nguồn : http://www.viet-studies.net/
Nguyễn Quang Dy - Coronavirus và nước cờ mạo hiểm của Trung Quốc |
Chiến dịch tuyên truyền và “ngoại giao khẩu trang” của Trung Quốc nhằm ba mục đích chính. Một là để đánh lạc hướng dư luận về coronavirus xuất xứ từ Vũ Hán mà họ đã phủ nhận. Hai là ca ngợi mô hình chống dịch của họ đã thành công. Ba là tuyên truyền cho “quyền lực mềm” của Trung Quốc đã đối phó thắng lợi với đại dịch, nay đang giúp các nước.
Theo các chuyên gia, chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc theo kiểu Liên Xô cũ trong chiến tranh lạnh, tuy “hùng hổ nhưng vụng về” (aggressive but clumsy), nên có thể “phản tác dụng” (backfiring). Bắc Kinh muốn đánh bóng và đánh tráo hình ảnh Trung Quốc (đang xấu đi), để lấy lòng dân trong nước (đang bất bình) và dư luận quốc tế (ngày càng bất lợi).
Có mấy lý do chiến dịch tuyên truyền của họ sẽ phản tác dụng. Một là sau bước đầu chập chững, các nước EU bắt đầu đoàn kết để chống đại dịch. Về lâu dài,Trung Quốc không thể lợi dụng tình trạng mất đoàn kết của Châu Âu để tuyên truyền rằng “chỉ có Trung Quốc giúp”. EU vừa tuyên bố là “Pháp và Đức đã giúp Ý số khẩu trang còn nhiều hơn Trung Quốc”.
Hai là EU bắt đầu phản công lại chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc. Josep Borrell (phụ trách đối ngoại của EU) đã lên án thông tin thất thiệt của Trung Quốc, làm Hoa Vi cắt giảm chương trình tài trợ khẩu trang cho EU. Ngày 26/3, EC kêu gọi Châu Âu phải tham gia “trận chiến truyền thông” để chống lại tuyên truyền thất thiệt của Trung Quốc.
Ba là các thiết bị y tế chất lượng kém của Trung quốc đã làm dư luận Châu Âu phản ứng mạnh. Một số nước như Tây Ban Nha, Hà Lan, Cộng hòa Séc, đã trả lại các bộ xét nghiệm (test kits) do Trung Quốc sản xuất, trong khi một số nước khác cũng trả lại khẩu trang Trung Quốc. EC vừa đưa ra các chỉ đạo mới để kiểm soát chất lượng hàng hóa y tế thiết yếu.
Bốn là tâm trạng nghi ngờ Trung Quốc của người Châu Âu không giảm vì những lo ngại sâu sắc về ảnh hưởng kinh tế và chính trị do Trung Quốc trỗi dậy. Điều đó phản ánh quan điểm cứng rắn trong các nước EU mà cách đây một năm, tài liệu “Chiến lược của EU đối với Trung Quốc” (EU Strategy paper on China) đã đề cập tới “như là đối thủ” (systemic rival).
Tóm lại, trước mắt Trung Quốc có thể ghi điểm với một số chính phủ dân túy, nhưng về lâu dài, chiến dịch tuyên truyền của họ không thay đổi được hình ảnh. Nếu Bắc Kinh muốn cải thiện quan hệ với Châu Âu, họ phải minh bạch về cách đối phó với coronavirus, không tuyên truyền thất thiệt và chính trị hóa tài trợ y tế. (No, Covid-19 Isn’t Turning Europe “Pro China”, Erik Brattberg and Philippe Le Corre, Belfer Center, Harvard, April 15, 2020).
Biển Đông lại nổi sóng
Theo Reuters, từ 16/4/2020, tàu khảo sát HD-8 và các tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã bám theo và quấy rối tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) đang thăm dò dầu khí trên thềm lục địa kéo dài về phía nam quần đảo Trường Sa. Theo MarineTraffic (23/4) tàu HD-8 vẫn đang trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, cách Borneo khoảng 336km.
Trong khi tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và USS Ronald Reagan đang bảo trì và cách ly tại cảng (Guam và Nhật) vì nhiều thủy thủy bị lây nhiễm coronavirus, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc đang hoạt động gần bãi cạn Macclesfield. Trung Quốc định bắt nạt Malaysia như họ đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính (năm 2019).
Theo Greg Poling (AMTI director/CSIS) ngày 20/4, các tàu tuần dương USS Bunker Hill, tàu đổ bộ USS America, tàu khu trục USS Barry (của Mỹ) và tàu khu trục HMAS Parramatta (của Úc) đã tập trận tại vùng biển tranh chấp giữa Malaysia và Trung Quốc, gần nơi tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia) và tàu HD-8 của Trung Quốc đang hoạt động.
Ngày 23/4, Malaysia đã tuyên bố cam kết bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông. Ngoại trưởng Hishammuddin Hussein của Malaysia nói, “Trong khi luật pháp quốc tế đảm bảo quyền tự do hàng hải, sự hiện diện của tàu chiến và tàu cảnh sát biển ở Biển Đông có khả năng làm gia tăng căng thẳng, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực”.
Trong khi Bộ Quốc phòng Mỹ điều tàu sân bay USS Harry Truman từ Trung Đông sang vùng Indo-Pacific để tăng cường cho hạm đội Thái Bình Dương, thì Không quân Mỹ lại dừng hoạt động của các máy bay ném bom chiến lược tầm xa tại Guam, vì dịch coronavirus. Các lỗ hổng chiến lược của Mỹ ở khu vực là cơ hội để Trung Quốc bành trướng. (China lays ever larger claim to South China Sea, Richard Heydarian, Asia Times, April 21, 2020).
Theo Nicole Schwegman (spokeswoman, US Indo-Pacific Command), với sự có mặt và hoạt động của Mỹ ở Biển Đông, “chúng ta đang phối hợp với các đồng minh và đối tác để đảm bảo tự do hàng hải và hàng không, cũng như các nguyên tắc quốc tế về an ninh và thịnh vượng ở Indo-Pacific…Mỹ ủng hộ đồng minh và đối tác vì lợi ích kinh tế của họ”.
Nhưng có một nghịch lý là chính phủ các nước khu vực vẫn lo ngại về “thói quen của Mỹ” là tuy họ xuất hiện tại các điểm nóng nhưng rồi lại rút, để các nước khu vực tự đối phó với Trung Quốc ngày càng mạnh. (US Warships Enter Disputed Waters of South China Sea as Tensions With China Escalate, Hannah Beech, New York Times, April 21, 2020).
Peter Jenning (Director, Australian Strategic Policy Institute) cho rằng trong khi phải đối phó với dịch coronavirus, Trung Quốc vẫn không giảm mà còn tăng cường hoạt động quân sự tại Biển Đông. Theo Jennings, “Ý đồ chiến lược của Trung Quốc là phải tranh thủ tối đa cơ hội khi Mỹ đang bị phân tâm và mất khả năng gây sức ép với các nước khu vực”.
Theo Alexander Vuving (APCS, Honolulu), tuy Trung Quốc phải chống dịch bùng phát, nhưng họ vẫn tư duy theo các mục tiêu chiến lược lâu dài của mình. Trung Quốc muốn tạo ra tình huống “bình thường mới” (new normal) ở Biển Đông nơi họ đang làm chủ. Và để làm điều đó, họ trở nên “ngày càng hung hăng hơn” (more and more aggressive).
Joshua Kurlantzick (CFR) cho rằng Trung Quốc lợi dụng lúc Mỹ và đồng minh phương Tây đang lo đối phó với đại dịch, để bắt nạt các nước khu vực vì lợi ích trước mắt, sẽ làm phương hại cho mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là phải lấy lòng các nước. Nhưng việc Mỹ bị phân tâm và mất khả năng đối phó là cơ hội quá hấp dẫn với Trung Quốc. (COVID19 and the South China Sea, Joshua Kurlantzick, Council on Foreign Relations, April 22, 2020).
Tam chủng chiến pháp
Chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông là chờ thời cơ, dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988). Sau đó, họ “thay đổi thực địa” (changing facts on the ground) bằng cách bồi đắp các đảo nhân tạo vả quân sự hóa thành các “cứ điểm” (outposts). Họ từng bước lấn chiến như “tầm ăn dâu” để thành “chuyện đã rồi” (fait accompli).
Trung Quốc áp dụng “Tam chủng Chiến pháp” (tâm lý, pháp lý, tuyên truyền). Về tâm lý, họ hành xử kiểu “nước lớn” bắt nạt “nước bé”, gây tâm lý lo sợ bị trừng phạt. Về pháp lý, họ dựa vào sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế. Về tuyên truyền, họ áp đặt những gì có lợi cho mình, sẵn sàng “đổi trắng thay đen” và “biến không thành có”, làm thật giả lẫn lộn.
Để hợp pháp hóa việc chiếm đóng và khẳng định chủ quyền (phi pháp) ở Biển Đông, năm 2012 Trung Quốc lập ra “thành phố Tam Sa” (Sansha), đặt trụ sở tại đảo Phú Lâm (Woody island tại Hoàng Sa). Họ di dân đến đó sinh sống và phát triển du lịch để có bộ mặt “dân sự”. Ngày 18/4, họ lập ra quận đảo Nam Sa (Nansha) và Tây Sa (Xinsha). Ngày 19/4, họ đặt tên tiếng Trung cho 25 đảo, bãi đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy Biển Đông (một cách phi pháp).
Năm ngoái (7-10/2019), tàu khảo sát HD-8 và các tàu hải cảnh hộ tống của Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền và quấy rối hoạt động dầu khí của Việt Nam gần Bãi Tư Chính và trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Họ đã gây ra “đối đầu” (standoff) và khủng hoảng Biển Đông (lần thứ hai) buộc các tàu cảnh sát biển của Việt Nam phải bám sát để ngăn chặn.
Ngày 12/12/2019, sau khi Malaysia gửi LHQ hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, thì cùng ngày 12/12, Trung Quốc gửi LHQ Công hàm phản đối Malaysia. Ngày 6/3/2020, sau khi Philippines gửi LHQ hai Công hàm trình bày quan điểm và phản đối các yêu sách của Trung Quốc, thì ngày 23/3 Trung Quốc gửi LHQ Công hàm đáp lại Philippines. Ngày 14/4/2020, Việt Nam gửi LHQ thêm hai Công hàm để đáp lại quan điểm của Malaysia và Philippines.
Ngày 20/03/2020, Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu trên đảo đá Chữ Thập và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc còn tiến hành tập trận tại Biển Đông (tháng 3/2020). Ngày 02/04/2020, tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa, và vu cáo tàu đánh cá Việt Nam đâm vào tàu hải cảnh của họ.
Ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi LHQ Công hàm khẳng định chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, và phản đối các lập luận vô lý của Trung Quốc tại biển Đông trong các Công hàm trước đó. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi LHQ Công hàm đáp trả Công hàm của Việt Nam, trong đó có những lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Nói cách khác, “cuộc chiến công hàm” này là một phần của “Tam chủng Chiến Pháp” (Three Warfare Doctrine).
Công hàm của Việt Nam gửi LHQ ngày 30/3/2020 nhằm (1) phản biện các yêu sách của Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, (2) khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, (3) khẳng định Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất quy định phạm vi vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo các chuyên gia về luật biển, Công hàm của Trung Quốc (17/4) có lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. Vì vậy, trong bối cảnh khó lường hiện nay, Việt Nam phải cảnh giác đề phòng Trung Quốc có thể nghi binh để dùng vũ lực (tàu hải cảnh và “dân quân biển”) uy hiếp các giàn DK gần Bãi Tư Chính, hoặc hạ đặt một cấu trúc nảo đó để lấn chiếm tại bãi Ba Đầu (thuộc cụm Sinh Tồn) như họ đã làm tại bãi cạn Scarborough của Philippines (2012).
Đồng thuận ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, Trung Quốc sẽ tranh thủ lợi thế so sánh ở Biển Đông để bắt nạt các nước ASEAN. Lực lượng chủ lực của Trung Quốc tại Biển Đông vẫn là tàu hải cảnh và “dân quân biển” để biến vùng không có tranh chấp thành “khu vực tranh chấp cường độ thấp” (low intensity conflict) trong vùng xám (grey area) để tránh xung đột với Mỹ.
Trong khi chính quyền Trump chủ trương “American First”, bỏ rơi TPP và giảm cam kết khu vực, thì ASEAN bị phân hóa thành mấy nhóm nước có mức độ độc lập hay lệ thuộc vào Trung Quốc khác nhau. Do đó, đồng thuận ASEAN ngày càng yếu, trong đàm phán về COC cũng như trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung tác động đến quan hệ Mỹ-ASEAN.
Sau khủng hoảng chính trị tại Kuala Lumpur, ông Mahathir Mohamed đã thất bại và ông Muhyiddin Yassin lập chính phủ mới (1/3/2020). Nếu Bắc Kinh định đảo ngược xu thế “thoát Trung” của chính phủ Mahathir, họ sẽ ép Malaysia rút tàu khoan West Capella khỏi lô ND1 như đã ép Việt Nam rút giàn khoan Hakuryu khỏi lô 06-1 gần bãi Tu Chính.
Để bù vào khoảng trống quyền lực của Mỹ ở khu vực, cần tăng cường vai trò an ninh tập thể của “Tứ cường” Mỹ, Nhật, Ấn, Úc (Quad), liên kết với các nước ASEAN có tranh chấp tại Biển Đông (như Việt Nam, Indonexia, Malaysia, Philippines). Cấu trúc an ninh này là cơ sở giúp Nhật có chính danh để tăng cường vai trò hợp tác an ninh tại Biển Đông.
Cho đến nay, hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam đã bị đình trệ, nguồn thu từ dầu khí bị giảm sút nghiêm trọng do không có dự án mới. Chỉ còn vài dự án cũ của Vietsovpetro tại Nam Côn Sơn là vẫn hoạt động. Trong khi đó, ExxonMobil (Mỹ) vẫn chưa triển khai dự án khí Cá Voi Xanh (lô 118). Năm ngoái, có tin đồn ExxonMobil định rút khỏi Việt Nam do sức ép ngầm của Trung Quốc hoặc do trục trặc về thủ tục dự án và giá bán khí.
Nếu Trung Quốc phân hóa được ASEAN như tách bó đũa để bẻ từng chiếc (chỉ đàm phán song phương chứ không đa phương) và gạt được Mỹ và đồng minh ra khỏi khu vực, để họ độc chiếm Biển Đông, thì tương lai ASEAN dễ bị “Ban Căng hóa” (Balkanization). Nói cách khác, Việt Nam và các nước ASEAN dễ trở thành chư hầu lệ thuộc vào Trung Quốc. Nhưng nếu Trung Quốc càng gây sức ép với Việt Nam thì họ càng xô đẩy Việt Nam gần Mỹ.
Theo Michael Green (CSIS) chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc tuy hùng hổ nhưng tỏ ra vụng về, chắc sẽ không hiệu quả. Cách đề cập của Bắc Kinh có vẻ bất lực, chứng tỏ sự bất an, không đối phó được với sự bùng phát”. (The Pandemic Won’t Make China the World’s Leader, Michael Green and Evan Medeiros, Foreign Affairs, April 15, 2020).
Theo Minxin Pei (Claremont McKenna College), Trung Quốc bị vây hãm bởi kinh tế đình đốn và xã hội ngày càng bất an từ bên trong và cạnh tranh nước lớn với bên ngoài, nên dễ bị đổ vỡ. Trung Quốc chắc phải tìm cách tháo gỡ, nhưng đang suy thoái dần, và sẽ lan rộng nhanh chóng. (China’s Coming Upheaval, Minxin Pei, Foreign Affairs, May/June 2020).
***
Trung Quốc vừa chống dịch coronavirus, vừa tiếp tục bắt nạt các nước ASEAN để độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ. Việt Nam và ASEAN cũng phải vừa chống đại dịch, vừa đối phó với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình tại Biển Đông. Nói cách khác, các nước ASEAN phải đoàn kết vì “đồng thuận ASEAN” để chống cả hai, trong khi Việt Nam phát huy vai trò tích cực của mình là Chủ tịch ASEAN trong năm 2020 và 2021.
Tham khảo
Nguồn : http://www.viet-studies.net/
Không có nhận xét nào