Bài 1: Tại sao từ thù thành bạn?
Sẽ là rất lịch sự nếu dùng những
từ đại loại “đối tác” hay “đối thủ” mà không phải là kẻ thù để chỉ mối quan hệ
hiện tại giữa Mỹ và Trung Quốc. Nếu xem Trung Quốc là kẻ thù, Mỹ đang đối mặt với
một kẻ thù chưa từng có, một kẻ thù không hoàn toàn nằm ở chiến tuyến đối lập
thật sự như với Liên Xô trước đây mà “bị” gắn kết bởi những lợi ích song phương
gần như không thể tách rời. Những gì đang xảy ra là hệ quả của lịch sử, một hệ
quả từ chính sách ngoại giao của những đời tổng thống trước…
Nhân vật cần phải nhắc lại:
Kissinger!
Trung Quốc và Mỹ vốn chẳng bao
giờ thật tâm với nhau. Chính kiến là một chuyện (tư bản và cộng sản). Tranh
giành ảnh hưởng mới là vấn đề chính. Thời Chiến tranh lạnh, hai nước xem nhau
như mặt trăng với mặt trời. Năm 1954, tại Hội nghị hòa đàm Geneva, Ngoại trưởng
Mỹ John Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối bắt tay người đồng cấp Chu Ân Lai
và thậm chí ra lệnh tất cả thành viên Mỹ phó hội Geneva phải “phớt lờ mọi lúc về
sự có mặt và tồn tại của phái đoàn Trung Quốc”. Cùng với chính sách cô lập
Trung Quốc về mặt ngoại giao, Mỹ cũng thiết lập một mạng lưới đồng minh và căn
cứ quân sự ở Đông Nam Á.
Đến giữa thập niên 1950,
Washington đã ký thỏa ước hợp tác quốc phòng với Úc và New Zealand (1951),
Philippines (1951), Nam Hàn (1953); thắt chặt quan hệ với Đài Loan (1954) và cả
cựu thù Nhật (1951). Mỹ còn thành lập nhiều tổ chức quân sự trong đó có Tổ chức
hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Tây Âu, Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á
(SEATO; Philippines, Thái Lan, Pakistan…), Tổ chức hiệp ước trung tâm (CENTO;
Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Pakistan…). Trước Thế chiến thứ hai, Philippines đã trở
thành căn cứ vững mạnh của Mỹ ở Thái Bình Dương, nối với chuỗi đảo thuộc quản
lý Mỹ (Guam, Wake, Midway)… Từ năm 1950, Washington cũng áp đặt lệnh cấm vận
toàn diện đối với Trung Quốc…
Yếu tố Liên Xô
Có lẽ Trung Quốc chẳng bao giờ
có cơ hội “ngóc đầu” lên nếu không xảy ra hai yếu tố thời cuộc, khiến chính
sách Washington đối với Bắc Kinh thay đổi 180o. Thứ nhất, đó là sự đe dọa của
Liên Xô, và thứ hai là cuộc chiến Việt Nam. Trong bối cảnh bế tắc của cuộc chiến
Việt Nam và đồng thời cần một đối trọng để cân bằng quyền lực với Liên Xô, Mỹ bắt
đầu chơi trò “mèo mả, gà đồng” với Trung Quốc. Đến đầu thập niên 1970, “bè lũ” Kissinger
đã áp dụng một chính sách tiếp cận Trung Quốc hoàn toàn khác. Mục tiêu của Mỹ
không còn làm suy yếu mà ngược lại phải làm cho Trung Quốc mạnh! Cụ thể nhất là
việc hỗ trợ cho lực lượng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) bằng
nhiều loại vũ khí hiện đại, đủ sức để Trung Quốc đương đầu nếu nước này xảy ra
chiến tranh với Liên Xô.
Tuy nhiên, trong khi Tổng thống
Richard Nixon (đảng Cộng hòa) và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger muốn tăng tốc
kế hoạch viện trợ quân sự cho Trung Quốc, Quốc hội Mỹ vẫn tỏ ý lo ngại và tìm
cách ngăn chặn, với niềm tin rằng Bắc Kinh là một đối tác bất khả tín. Tuy
nhiên, Nixon, rồi người kế nhiệm Gerald Ford (Cộng hòa), vẫn thuyết phục được
Quốc hội, dù mức độ viện trợ không được như phác thảo ban đầu. Trong số thiết bị-phương
tiện viện trợ cho Trung Quốc lúc đó, có hệ thống bắt tín hiệu truyền hình vệ
tinh, 10 chiếc Boeing 707 và hai máy tính tốc độ cao. Đến năm 1975, Kissinger
(lúc này là ngoại trưởng) còn kêu gọi xóa một số hạn chế xuất khẩu được áp dụng
thời Chiến tranh lạnh, trong đó có việc bán động cơ phản lực Rolls-Royce (Anh sản
xuất) cho Trung Quốc. Song song, Mỹ và Trung Quốc cũng thiết lập các chương
trình tập trận, huấn luyện quân sự và thậm chí soạn thảo kịch bản tác chiến
(đánh Liên Xô)…
Dù vậy, Mỹ rất cân nhắc chính
sách viện trợ quân sự cho Trung Quốc, phần vì bản chất của “cuộc tình”
Washington-Bắc Kinh thực chất chỉ là mối tình tạm bợ, vì “cưỡng hôn” mà có, vì
thời cuộc xoay vần mà ra. Phần nữa, Mỹ không dám ào ạt viện trợ quân sự cho
Trung Quốc bởi lo ngại Liên Xô có khả năng phản ứng mạnh và chơi đòn phủ đầu bằng
cách bất ngờ tấn công Trung Quốc, dẫn đến nguy cơ một cuộc đại chiến thế giới lần
ba. Trong thực tế, đã có vài tín hiệu cho thấy Liên Xô sẵn sàng dập Trung Quốc,
không phải đánh bằng một chiến dịch quân sự thông thường mà là đập cho nát ngướu!
Hè 1969, khi xung đột biên giới Trung Quốc và Liên Xô căng thẳng, tại một bữa
ăn trưa ở nhà hàng “Beef and Bird” ở trung tâm Washington, một viên chức ngoại
giao cấp trung Liên Xô đã nói với người đồng cấp Mỹ rằng Moscow đã lên kế hoạch
“cực kỳ nghiêm túc” việc tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân Trung Quốc.
Sự kiện Afghanistan
Vài tuần sau tại Teheran, một
tùy viên không quân Liên Xô cũng nói với một sĩ quan Mỹ rằng Liên Xô “sẽ không
ngần ngại dùng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Trung Quốc” nếu Trung Quốc tiếp tục
quấy rối biên giới Liên Xô. Năm 1973, một lần nữa, Liên Xô lại đề cập khả năng
tấn công các cơ sở hạt nhân Trung Quốc. Phản ứng, Kissinger – trong chuyến kinh
lý Bắc Kinh cuối năm 1973 – nói với Chu Ân Lai rằng trong trường hợp Moscow
tuyên chiến với “người anh em” Trung Quốc, Mỹ “có thể giúp đỡ bằng cách hỗ trợ
thiết bị và các dịch vụ khác” (nhưng không nêu cụ thể là những gì), đồng thời
giúp Trung Quốc giảm thiểu khả năng thiệt hại bằng cách cung cấp thông tin tình
báo cảnh báo sớm. Điều này chỉ có thể thực hiện một khi thiết lập đường dây
nóng “giữa các vệ tinh của chúng ta để chúng tôi có thể thông báo cho các bạn
chỉ trong vài phút”…
Giữa thập niên 1970, Mỹ bắt đầu
giảm bớt liều lượng nhiệt tình trong quan hệ với Trung Quốc. Cuộc chiến Việt
Nam đã ngã ngũ và mối đe dọa hạt nhân Liên Xô cũng không còn. Hơn nữa, quan điểm
nổi trội trong chính trường Mỹ vẫn là sự áp đảo của phe chính trị truyền thống
với chính sách không thân thiện với một nước cộng sản như Trung Quốc. Phần
mình, Bắc Kinh cũng chẳng thấy vui gì khi Washington thắt chặt bang giao với
mình; một mặt, vẫn “đi đêm đi hôm” và thậm chí công khai bênh vực Đài Loan.
Trong thực tế, cả Bắc Kinh lẫn Washington đều nhìn thấy rõ bản chất của mối
quan hệ: Trung Quốc cần dựa hơi Mỹ để chống Liên Xô, trong khi Washington cần
vuốt ve Trung Quốc để lấy nó làm đối trọng trong những cuộc mặc cả chính trị với
Moscow.
Tuy nhiên, tháng 12-1979, khi
quân đội Liên Xô tấn công Afghanistan, quan hệ chiến lược Washington-Bắc Kinh lại
được đẩy lên một “tầm cao” mới. Trong chuyến công du Bắc Kinh tháng 1-1980, Bộ
trưởng quốc phòng Mỹ Harold Brown đề xuất loạt trao đổi giữa các viên chức quốc
phòng cấp cao hai nước, ở một mức độ “chưa từng có trước nay”. Tổng thống Jimmy
Carter (Dân chủ) tuyên bố ông sẽ chuẩn y các giấy phép xuất khẩu cho những mặt hàng
liên quan kỹ thuật kép (dùng cho dân sự lẫn quân sự), và lần đầu tiên cũng chuẩn
y phi vụ bán các hệ thống quân sự không giết người, như radar, vận tải cơ, trực
thăng và phần cứng viễn thông. Tuy nhiên, Carter vẫn còn đủ tỉnh táo và thận trọng
không đồng ý bán vũ khí tấn công, bất chấp sự bày tỏ quan tâm từ Bắc Kinh…
Chính sách thân thiện của Washington đối với Bắc Kinh, dù ẩn sâu bên trong vẫn
tồn tại nhiều nghi kỵ và dè chừng, đã khiến dư luận Mỹ thời điểm đó bớt nhìn
Trung Quốc bằng cặp mắt tiêu cực. Trong suốt thập niên 1970, chỉ khoảng 1/3 người
được hỏi trong các cuộc thăm dò tại Mỹ là bày tỏ cái nhìn tích cực dành cho
Trung Quốc trong khi 2/3 hoặc hơn nói chung tỏ ra nghi ngại Trung Quốc. Đến thập
niên 1980, những kết quả thăm dò bắt đầu cho thấy ngược lại. Trong cuộc thăm dò
tháng 2-1989, tỉ lệ người Mỹ “khoái” Trung Quốc đã lên đến 73%!
Nguồn : https://saigonnhonews.com/
Không có nhận xét nào