Lịch sử chính trị thế giới
cho thấy có khi, chỉ bởi vài quan điểm cá nhân, thế cục đã có thể thay
đổi. Trong trường hợp Trung Quốc và Mỹ, đó là những bộ não như Henry
Kissinger và sau đó là “học trò” của ông – Ngoại trưởng Alexander Haig.
Bài 2: Thế cuộc xoay vần, làm sao trở bộ?
Một “bước tiến” quá xa
Trong Nội các Ronald Reagan (thuộc đảng Cộng hòa; kế nhiệm Jimmy Carter), Alexander Haig được xem là nhân vật luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách thân Bắc Kinh. Haig muốn đặt dấu ấn riêng trên trang sử quan hệ Mỹ-Trung bằng việc thực hiện những bước đột phá để nâng quan hệ hai nước lên một cấp độ chiến lược mới, mà trọng tâm của nó là tăng tốc việc bán vũ khí giết người cho Trung Quốc, về chất lẫn lượng. Haig tin rằng, chỉ khi như vậy, Mỹ mới có thể cân bằng được sức mạnh quân sự Liên Xô.
Quan điểm của Haig cũng được chia sẻ bởi một số người trong bộ máy quân đội Mỹ. Bản nghiên cứu về mối quan hệ an ninh chiến lược với Trung Quốc năm 1981 của Bộ tổng tham mưu quân đội Hoa Kỳ kết luận rằng, Trung Quốc “đang đóng góp đáng kể” cho “sự cân bằng toàn cầu”. Tuy nhiên, một lần nữa, Quốc hội và một số tướng lĩnh Lầu năm góc vẫn dè dặt việc mở rộng cửa và cung cấp Trung Quốc những kỹ thuật quân sự tiên tiến. Với Haig, đó là những ý kiến “thiển cận”, xuất phát từ hạng người có “tư duy bàn giấy” và “đầu óc hẹp hòi”…
Sự vận động liên tục của Haig cuối cùng cũng có kết quả, dù khiêm tốn. Năm 1983, Bộ trưởng quốc phòng Caspar Weinberger tuyên bố, trong số những bước đi mới được thiết kế nhằm tăng cường quan hệ quân sự song phương Mỹ-Trung, Washington sẽ sẵn lòng bán những hệ thống “vũ khí phòng ngự” cho Bắc Kinh. Và trong nửa sau thập niên 1980, Washington cũng đồng ý bán cho Trung Quốc ngư lôi, radar chiến thuật, thiết bị máy móc để sản xuất vỏ đại bác và hệ thống điện tử cho thiết bị đánh chặn của chiến đấu cơ. Giới chức Mỹ thậm chí còn bày tỏ việc sẵn lòng thảo luận việc bán hệ thống tên lửa chống tăng, hệ thống dò âm chống tàu ngầm, động cơ turbine khí cho tàu chiến và hệ thống tên lửa không đối không.
Tóm lại, Washington đã chuẩn bị bán một số mặt hàng quân sự với số lượng lớn cho Trung Quốc. Sau chuyến công du Trung Quốc của Weinberger năm 1983, loạt trao đổi qua lại giữa giới chức dân sự lẫn quân sự ở mọi cấp bậc của hai nước liên tục diễn ra. Không chỉ dự tính tổ chức các cuộc phối hợp tập trận hải quân giữa hai quân đội, Mỹ còn háo hức đề xuất ý kiến triển khai máy bay chiến thuật đến những căn cứ gần Vladovostok; phát triển “những hệ thống phòng không và cảnh báo sớm”, xin được phép tiếp liệu cho vận tải cơ Mỹ mang hàng hóa cung cấp cho lực lượng “kháng chiến quân” Afghanistan trong cuộc chiến chống Liên Xô…
“Tính lại” như thế nào?
Tuy nhiên, thời cuộc lại thay đổi và ảnh hưởng của nó là sự tái nhận thức về các mối quan hệ. Giữa thập niên 1980, Liên Xô đang lún sâu vào hỗn loạn nội bộ, trong làn sóng cải tổ của Mikhail Gorbachev. Nhận định rằng Moscow không còn là kẻ thù và là mối đe dọa an ninh lớn đối với mình, Bắc Kinh bắt đầu muốn cải thiện quan hệ với Moscow để tận dụng quan hệ quân sự lẫn kinh tế. Dù sao, hai nước cũng từng có những mối liên hệ chặt chẽ thời thập niên 1950. Việc tái nhận thức trong chiến lược quan hệ với Liên Xô khiến Bắc Kinh “tế nhị” đẩy quan hệ với Mỹ xuống một… tầm thấp hơn. Thế là thay vì hăm hở sắm “đồ chơi” Mỹ, Trung Quốc đã bỏ qua (cơ hội ngàn vàng này) và chỉ mua vài thứ tượng trưng. Những kế hoạch hợp tác quân sự song phương như nói ở trên cũng bị bỏ xó…
Năm 1989 đã xảy ra hai sự kiện kinh thiên động địa khiến Mỹ bắt đầu giảm dần, dù rất chậm, mối quan hệ với Trung Quốc. Thứ nhất đó là sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6 và tiếp đó là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11. Cả hai sự kiện đều mang lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với chính sách đối ngoại của Mỹ lẫn Trung Quốc. Với Mỹ, sự tan rã khối cộng sản Đông Âu khiến điểm tựa Liên Xô không còn đã dẫn Washington đến những phác thảo mới cho chủ trương đối ngoại. Có một điều đến nay không thể giải thích là tại sao dù chiến lược cân bằng với Liên Xô không còn cần thiết nhưng Washington, bất chấp sự kiện kinh hoàng Thiên An Môn, vẫn duy trì quan hệ khá gần gũi với Trung Quốc.
Vài tháng sau vụ Thiên An Môn, thứ trưởng ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ. Do đó, Bắc Kinh và Washington cần tiếp tục chia sẻ nhiều mối quan tâm mới, qua những chương trình hợp tác mới, trong bối cảnh chính trị mới. Theo quan điểm Eagleburger cũng như một số giới chức hoạch định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, Washington bây giờ cần hỗ trợ để đưa Trung Quốc tiếp cận và gắn kết sâu hơn vào các hệ thống định chế quốc tế. Một cách tinh vi, đó là cách thuần hóa một con cọp đang mọc nanh.
Washington từng nghĩ Trung Quốc chỉ mải lo làm giàu, thế thôi!
Chính sách này xuất hiện ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ Bill Clinton (Dân chủ). Năm 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố Washington sẽ theo đuổi chính sách “hợp tác toàn diện” với Trung Quốc – như Tổng thống Bill Clinton đã trình bày: “Chúng tôi sẽ có nhiều mối liên hệ hơn. Chúng tôi sẽ giao thương nhiều hơn. Chúng tôi sẽ hợp tác quốc tế nhiều hơn”. Nói cách khác, Mỹ đã phát quang dọn đường đưa Trung Quốc lên vũ đài quốc tế, với hy vọng rằng, Trung Quốc sẽ có ý thức trách nhiệm hơn với những nghị sự thế giới và những vấn đề toàn cầu (chẳng hạn ô nhiễm môi trường), cũng như sẽ hành xử biết điều, biết luật hơn, với những xung đột khu vực…
Mỹ đã tạo ra một ảo tưởng cho Trung Quốc rằng họ bây giờ là một cường quốc. Đặt Trung Quốc lên chiếc ghế định chế quốc tế không chỉ buộc Trung Quốc phải “ăn ở” cho ra “tư cách người lớn” mà cũng là một cách để có thể giám sát và thậm chí khống chế Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Mỹ dành cả nửa sau của thập niên 1990 để vận động đưa Trung Quốc vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000, George W. Bush (Cộng hòa) chỉ trích nội các tiền nhiệm đã “dung túng” và “nuông chiều” Trung Quốc thái quá. Với Bush, Trung Quốc không thể là “đối tác chiến lược” mà phải là “đối thủ chiến lược”. Dù vậy, thế cờ đã được bày, trong một thời gian dài như vậy, làm sao có thể gỡ một sớm một chiều? Cuối cùng, dưới áp lực của giới doanh nghiệp và tài phiệt Mỹ, Bush cũng buộc phải áp dụng chính sách đối với Trung Quốc chẳng khác thời Bill Clinton bao nhiêu…
Dù chỉ trích Bill Clinton (Dân chủ) về chính sách đối với Trung Quốc nhưng George W. Bush (Cộng hòa) cũng áp dụng con đường chẳng khác mấy so với chính phủ tiền nhiệm (trong ảnh là vợ chồng Tổng thống George W. Bush, cựu Tổng thống George H. W. Bush, cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, và Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008) (China Daily Photo)
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quân sự, những gì được thiết lập trước năm 1989 đã không bao giờ được tái lập. Mỹ bắt đầu nhận ra rằng, Trung Quốc đang từng bước trở thành một mối họa đối với an ninh và quyền lợi Mỹ. Sự nhận thức này diễn ra rất chậm. Trước năm 1996, giới chức quân sự Mỹ vẫn còn chưa quan tâm sự phát triển quân sự Trung Quốc. Họ chỉ nghĩ Trung Quốc đang mải mê lo làm giàu, thế thôi. Trong khi đó, một sự nhận chân toàn bộ về thực trạng quân sự non kém của mình lại đang sôi sùng sục tại Trung Quốc, từ khi họ chứng kiến sức mạnh kinh khủng của Mỹ phô diễn ở cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Trung Quốc bắt đầu âm thầm tăng tốc đầu tư quân sự, trước sự thờ ơ của Mỹ.
Tất cả chỉ thay đổi vào năm 1996, khi Đài Loan tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên. Trung Quốc đã gây sức ép Đài Bắc bằng cách triển khai dàn tên lửa chĩa thẳng về Đài Loan. Lần đầu tiên trong hơn 30 năm, Mỹ mới nhận ra một hiểm họa chiến tranh thật sự tại châu Á, đến từ Trung Quốc. Lập tức sau đó, tình báo Mỹ bắt đầu theo dõi hoạt động quân sự Trung Quốc. Kết quả thật đáng lo ngại, nếu không nói là đầy tính cảnh báo. Hóa ra quân đội Trung Quốc đã mạnh hơn Mỹ nghĩ rất nhiều, dù sức mạnh này còn kém Mỹ rất xa. Trước sự kiện 1996, CIA gần như chẳng đếm xỉa đến Trung Quốc.
Trong báo cáo các mối đe dọa toàn cầu vào tháng 2-1996, Giám đốc CIA John Deutch trình bày ngắn gọn: “Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung Quốc cũng như kế hoạch của họ”. Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung Quốc cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh đỉnh cao ở Đông Á”. Đến năm 1998, Tenet tin chắc rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc “có một mục tiêu rõ ràng: biến nước họ thành một sức mạnh chủ yếu ở Đông Á cũng như là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới ngang hàng Mỹ vào giữa thế kỷ 21”.
Nguồn : https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/bai-2-quan-he-my-trung-lich-su-da-dan-dat-nhu-the-nao/
Mạnh Kim - Quan hệ Mỹ-Trung: Lịch sử đã dẫn dắt như thế nào? |
Một “bước tiến” quá xa
Trong Nội các Ronald Reagan (thuộc đảng Cộng hòa; kế nhiệm Jimmy Carter), Alexander Haig được xem là nhân vật luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách thân Bắc Kinh. Haig muốn đặt dấu ấn riêng trên trang sử quan hệ Mỹ-Trung bằng việc thực hiện những bước đột phá để nâng quan hệ hai nước lên một cấp độ chiến lược mới, mà trọng tâm của nó là tăng tốc việc bán vũ khí giết người cho Trung Quốc, về chất lẫn lượng. Haig tin rằng, chỉ khi như vậy, Mỹ mới có thể cân bằng được sức mạnh quân sự Liên Xô.
Quan điểm của Haig cũng được chia sẻ bởi một số người trong bộ máy quân đội Mỹ. Bản nghiên cứu về mối quan hệ an ninh chiến lược với Trung Quốc năm 1981 của Bộ tổng tham mưu quân đội Hoa Kỳ kết luận rằng, Trung Quốc “đang đóng góp đáng kể” cho “sự cân bằng toàn cầu”. Tuy nhiên, một lần nữa, Quốc hội và một số tướng lĩnh Lầu năm góc vẫn dè dặt việc mở rộng cửa và cung cấp Trung Quốc những kỹ thuật quân sự tiên tiến. Với Haig, đó là những ý kiến “thiển cận”, xuất phát từ hạng người có “tư duy bàn giấy” và “đầu óc hẹp hòi”…
Sự vận động liên tục của Haig cuối cùng cũng có kết quả, dù khiêm tốn. Năm 1983, Bộ trưởng quốc phòng Caspar Weinberger tuyên bố, trong số những bước đi mới được thiết kế nhằm tăng cường quan hệ quân sự song phương Mỹ-Trung, Washington sẽ sẵn lòng bán những hệ thống “vũ khí phòng ngự” cho Bắc Kinh. Và trong nửa sau thập niên 1980, Washington cũng đồng ý bán cho Trung Quốc ngư lôi, radar chiến thuật, thiết bị máy móc để sản xuất vỏ đại bác và hệ thống điện tử cho thiết bị đánh chặn của chiến đấu cơ. Giới chức Mỹ thậm chí còn bày tỏ việc sẵn lòng thảo luận việc bán hệ thống tên lửa chống tăng, hệ thống dò âm chống tàu ngầm, động cơ turbine khí cho tàu chiến và hệ thống tên lửa không đối không.
Tóm lại, Washington đã chuẩn bị bán một số mặt hàng quân sự với số lượng lớn cho Trung Quốc. Sau chuyến công du Trung Quốc của Weinberger năm 1983, loạt trao đổi qua lại giữa giới chức dân sự lẫn quân sự ở mọi cấp bậc của hai nước liên tục diễn ra. Không chỉ dự tính tổ chức các cuộc phối hợp tập trận hải quân giữa hai quân đội, Mỹ còn háo hức đề xuất ý kiến triển khai máy bay chiến thuật đến những căn cứ gần Vladovostok; phát triển “những hệ thống phòng không và cảnh báo sớm”, xin được phép tiếp liệu cho vận tải cơ Mỹ mang hàng hóa cung cấp cho lực lượng “kháng chiến quân” Afghanistan trong cuộc chiến chống Liên Xô…
“Tính lại” như thế nào?
Tuy nhiên, thời cuộc lại thay đổi và ảnh hưởng của nó là sự tái nhận thức về các mối quan hệ. Giữa thập niên 1980, Liên Xô đang lún sâu vào hỗn loạn nội bộ, trong làn sóng cải tổ của Mikhail Gorbachev. Nhận định rằng Moscow không còn là kẻ thù và là mối đe dọa an ninh lớn đối với mình, Bắc Kinh bắt đầu muốn cải thiện quan hệ với Moscow để tận dụng quan hệ quân sự lẫn kinh tế. Dù sao, hai nước cũng từng có những mối liên hệ chặt chẽ thời thập niên 1950. Việc tái nhận thức trong chiến lược quan hệ với Liên Xô khiến Bắc Kinh “tế nhị” đẩy quan hệ với Mỹ xuống một… tầm thấp hơn. Thế là thay vì hăm hở sắm “đồ chơi” Mỹ, Trung Quốc đã bỏ qua (cơ hội ngàn vàng này) và chỉ mua vài thứ tượng trưng. Những kế hoạch hợp tác quân sự song phương như nói ở trên cũng bị bỏ xó…
Năm 1989 đã xảy ra hai sự kiện kinh thiên động địa khiến Mỹ bắt đầu giảm dần, dù rất chậm, mối quan hệ với Trung Quốc. Thứ nhất đó là sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6 và tiếp đó là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11. Cả hai sự kiện đều mang lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với chính sách đối ngoại của Mỹ lẫn Trung Quốc. Với Mỹ, sự tan rã khối cộng sản Đông Âu khiến điểm tựa Liên Xô không còn đã dẫn Washington đến những phác thảo mới cho chủ trương đối ngoại. Có một điều đến nay không thể giải thích là tại sao dù chiến lược cân bằng với Liên Xô không còn cần thiết nhưng Washington, bất chấp sự kiện kinh hoàng Thiên An Môn, vẫn duy trì quan hệ khá gần gũi với Trung Quốc.
Vài tháng sau vụ Thiên An Môn, thứ trưởng ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ. Do đó, Bắc Kinh và Washington cần tiếp tục chia sẻ nhiều mối quan tâm mới, qua những chương trình hợp tác mới, trong bối cảnh chính trị mới. Theo quan điểm Eagleburger cũng như một số giới chức hoạch định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, Washington bây giờ cần hỗ trợ để đưa Trung Quốc tiếp cận và gắn kết sâu hơn vào các hệ thống định chế quốc tế. Một cách tinh vi, đó là cách thuần hóa một con cọp đang mọc nanh.
Washington từng nghĩ Trung Quốc chỉ mải lo làm giàu, thế thôi!
Chính sách này xuất hiện ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ Bill Clinton (Dân chủ). Năm 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố Washington sẽ theo đuổi chính sách “hợp tác toàn diện” với Trung Quốc – như Tổng thống Bill Clinton đã trình bày: “Chúng tôi sẽ có nhiều mối liên hệ hơn. Chúng tôi sẽ giao thương nhiều hơn. Chúng tôi sẽ hợp tác quốc tế nhiều hơn”. Nói cách khác, Mỹ đã phát quang dọn đường đưa Trung Quốc lên vũ đài quốc tế, với hy vọng rằng, Trung Quốc sẽ có ý thức trách nhiệm hơn với những nghị sự thế giới và những vấn đề toàn cầu (chẳng hạn ô nhiễm môi trường), cũng như sẽ hành xử biết điều, biết luật hơn, với những xung đột khu vực…
Mỹ đã tạo ra một ảo tưởng cho Trung Quốc rằng họ bây giờ là một cường quốc. Đặt Trung Quốc lên chiếc ghế định chế quốc tế không chỉ buộc Trung Quốc phải “ăn ở” cho ra “tư cách người lớn” mà cũng là một cách để có thể giám sát và thậm chí khống chế Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Mỹ dành cả nửa sau của thập niên 1990 để vận động đưa Trung Quốc vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000, George W. Bush (Cộng hòa) chỉ trích nội các tiền nhiệm đã “dung túng” và “nuông chiều” Trung Quốc thái quá. Với Bush, Trung Quốc không thể là “đối tác chiến lược” mà phải là “đối thủ chiến lược”. Dù vậy, thế cờ đã được bày, trong một thời gian dài như vậy, làm sao có thể gỡ một sớm một chiều? Cuối cùng, dưới áp lực của giới doanh nghiệp và tài phiệt Mỹ, Bush cũng buộc phải áp dụng chính sách đối với Trung Quốc chẳng khác thời Bill Clinton bao nhiêu…
Dù chỉ trích Bill Clinton (Dân chủ) về chính sách đối với Trung Quốc nhưng George W. Bush (Cộng hòa) cũng áp dụng con đường chẳng khác mấy so với chính phủ tiền nhiệm (trong ảnh là vợ chồng Tổng thống George W. Bush, cựu Tổng thống George H. W. Bush, cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, và Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008) (China Daily Photo)
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quân sự, những gì được thiết lập trước năm 1989 đã không bao giờ được tái lập. Mỹ bắt đầu nhận ra rằng, Trung Quốc đang từng bước trở thành một mối họa đối với an ninh và quyền lợi Mỹ. Sự nhận thức này diễn ra rất chậm. Trước năm 1996, giới chức quân sự Mỹ vẫn còn chưa quan tâm sự phát triển quân sự Trung Quốc. Họ chỉ nghĩ Trung Quốc đang mải mê lo làm giàu, thế thôi. Trong khi đó, một sự nhận chân toàn bộ về thực trạng quân sự non kém của mình lại đang sôi sùng sục tại Trung Quốc, từ khi họ chứng kiến sức mạnh kinh khủng của Mỹ phô diễn ở cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Trung Quốc bắt đầu âm thầm tăng tốc đầu tư quân sự, trước sự thờ ơ của Mỹ.
Tất cả chỉ thay đổi vào năm 1996, khi Đài Loan tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên. Trung Quốc đã gây sức ép Đài Bắc bằng cách triển khai dàn tên lửa chĩa thẳng về Đài Loan. Lần đầu tiên trong hơn 30 năm, Mỹ mới nhận ra một hiểm họa chiến tranh thật sự tại châu Á, đến từ Trung Quốc. Lập tức sau đó, tình báo Mỹ bắt đầu theo dõi hoạt động quân sự Trung Quốc. Kết quả thật đáng lo ngại, nếu không nói là đầy tính cảnh báo. Hóa ra quân đội Trung Quốc đã mạnh hơn Mỹ nghĩ rất nhiều, dù sức mạnh này còn kém Mỹ rất xa. Trước sự kiện 1996, CIA gần như chẳng đếm xỉa đến Trung Quốc.
Trong báo cáo các mối đe dọa toàn cầu vào tháng 2-1996, Giám đốc CIA John Deutch trình bày ngắn gọn: “Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung Quốc cũng như kế hoạch của họ”. Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung Quốc cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh đỉnh cao ở Đông Á”. Đến năm 1998, Tenet tin chắc rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc “có một mục tiêu rõ ràng: biến nước họ thành một sức mạnh chủ yếu ở Đông Á cũng như là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới ngang hàng Mỹ vào giữa thế kỷ 21”.
Nguồn : https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/bai-2-quan-he-my-trung-lich-su-da-dan-dat-nhu-the-nao/
Không có nhận xét nào