Công điện Phạm văn Đồng ký và gửi ngày 14/9/1958 cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai |
Từ nhiều tuần nay, các học giả, nhà nghiên cứu, chính trị gia, luật
gia nói viết nhiều về công điện Phạm văn Đồng ký và gửi ngày 14/9/1958
cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai liên quan tới lời tuyên bố của
Trung Quốc ngày 4/9/1958 về bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc nới rộng là 12 hải lý bao gồm lãnh thổ trên đất liền và các
hải đảo ngoài khơi, Đài Loan và quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa,
quần đảo Tây Sa (Xisha tức Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa
(Nansha tức Trường Sa).
Điều tuyên bố trên của Trung Quốc về việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý hoàn toàn phù hợp với đề nghị của Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Geneve từ ngày Từ 24-2 đến 29-4-1958.
Đối với Thủ Tướng Phạm văn Đồng, bức công điện đánh đi có nội dung như sau :
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.”
Chính công điện hay công hàm của TT Phạm văn Đồng này đã gây nên những tranh cãi bất tận và đối nghịch nhau đưa đến những giải thích và kết luận có nhiều điểm hoàn toàn trái với luật thông lệ quốc tế, công pháp quốc tế và luật quốc tế về hiệp ước.
Chúng tôi nhận thấy có sự nhầm lẫn căn bản là : sự lẫn lộn Luật quốc nội (droit interne) và Luật công pháp quốc tế (droit international public), và Luật quốc tếvề hiệp ước (droit international des traités) , đặt biệt Công Ước Viennne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités).
Chúng tôi sẽ giải thích sự lầm lẫn trên có thể đưa đến các kết luận tai hại qua việc đánh giá không chính xác công điện Phạm văn Đồng đồng thời với những lời giải thích này hy vọng sẽ soi sáng các quyết định của các nhà lãnh đạo Chính Quyền Việt nam can đảm nắm bắt cơ may bằng cách sử dụng cơ quan tài phán quốc tế thích hợp để Việtnam chiến thắng trên trường quốc tế liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa (1).
I- TÌM HIỂU NỘI DUNG CÔNG ĐIỆN VÀ Ý ĐỊNH CỦA TT PHẠM VĂN ĐỒNG
1)- Đọc lại từng câu, từng chữ Công Điện, chúng tôi nhận thấy mạch lạc rõ ràng (sans équivoque) : “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố…, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Đọan tiếp : Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định… hải phận 12 hải lý và còn nhấn mạnh 3 chữ cuối câutrên mặt bể.”
2)- Công Điện Phạm văn Đồng không hề nhắc đến, hay ám chỉ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Chính Phủ Việt Nam Công Hoà (VNCH), một quốc gia độc lập (indépendance) có chủ quyền (souveraineté) và được quốc tế thừa nhận tương tự như Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) với thủ đô là Hà Nội.
Sự giải thích trên đúng với qui định căn cứ theo điều 29 Công Ước Vienne về Hiệp Ứơc: thoả ứơc chỉ áp dụng trên toàn lãnh thổ của bên kết ứơc (2).
3)- Nhìn kỹ lại lời tuyên bố của Trung Quốc 4/9/1958 , trong thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Genève, chỉ cốt yếu về việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý, không phải là lời tuyên bố vể chủ quyền các đảo mặc dù lời tuyên bố có chồng chéo lên chủ quyền các đảo thuộc các nước khác như Việt Nam Công Hoà (Hoàng Sa & Trường Sa, và các nước Philippines, Malaysia, Brunei , Đài Loan (Trường Sa,).
Đằng khác, Công Pháp Quốc tế cũng chỉ cho phép tuyên bố đơn phương một đố tượng duy nhất chỉ định rõ ràng như như việc việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý của Trung Quốc.
Chính vì lý do đó, các quốc gia này đã không thấy cần thiết phải lên tiếng về lời tuyên bố của Trung Quốc ngoại trừ TT Phạm Văn Đồng của Chính Phủ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một quốc gia độc lập với Chính Phủ Việt Nam Công Hoà (theo Hiệp Định Geneve 1954 phân định) lên tiếng ủng hộ thông qua Công Điện nói trên.
Điều 31 Công Ước Vienne về hiệp ứơc cho biết việc giải thích thỏa ứơc phải thiện ý theo ý nghĩa bình thường trong bối cảnh thoả ứơc phát sinh và theo đối tựơng và mục đích rõ ràng trong thỏa ước.
Như vậy Công Điện Phạm văn Đồng được phát sinh gửi đi trong bối cảnh Trung Quốc tuyên bố nới rộng biển đảo ra 12 hai lý vào thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Geneve từ ngày Từ 24-2 đến 29-4-1958.
Đàng khác đối tựơng và mục đích rõ ràng ghi trong Công Điện chỉ rõ việc thừa nhận 12 hải lý mở rộng, không có một chữ, một câu nào trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Điều 32 Công Ước Vienne cũng qui định, trong trừơng hợp văn kiện mù mờ, không rõ ràng, có nguy cơ đưa tới kết luận kỳ quái (absurde) vô lý thì phải xem xét những công việc sửa sọan trước đó và những tình huống đưa tới việc ký kết văn kiện.
Thực vậy cho đến nay, trứơc thời điểm ký văn kiện, cũng như từ ngày TT Phạm văn Đồng ký gửi công điện 14/9/1958 tán thành việc nới rộng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, cho đến khi mất đã không hề tìm thấy một tài liệu nào công nhận hay mặc nhiên công nhận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Đàng khác, chúng tôi cũng không thấy có một sự kiện nào, bằng các cuộc thỏa luận thương thuyết hay văn bản trao đổi giữa Trong Quốc và Việt-nam liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa trước và sau công điện do TT Phạm văn Đồng ký ngày 14/9/1958.
Trái lại, thực tế cho thấy :
- Ngay khi Chính Phủ VNCH sụp đổ ngày 30/4/1975, quân đội của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) tiếp quản đảo Trường Sa rối giao lại cho Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) khi thống nhất đất nước 1976.
- Trận hải chiến ngày 19/1/1974 do Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Việt Nam Công Hoà (VNCH) đã làm thiệt mạng 75 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa anh dũng chiến đấu. Ngay tức thì, ngày 19/1/1974, Bộ Ngoại Giao VNCH ra tuyên cáo phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc. Tương tự, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cũng đã phản đối hành động của TQ, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
- Ngày 14/3/1988, Trung Quốc đem quân xâm chiếm các bãi đá Gac Ma, Colin và Len Dao thuộc quần đảo Trừơng Sa của Viêt nam và giết hại 64 hải quân Việt Nam ra bảo vệ.
Các sự kiện nêu trên, sau khi Chính Quyền VNCH không tồn tại, các Chính Quyền kế tiếp từ Chính Quyền CHMNVN đến Chính Quyền VNDCCH và nay là Chính Quyền XHCNVN không có một sự nhượng bộ hay thỏa ước nào được biết đến cho tới nay liên quan tới các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả các giải thích trên cho thấy, Công Điện hay Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng ký gửi ngày 14/9/1958 cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyến bố về lãnh hải 12 hải lý, chỉ là một sự tuyên bố ngoại giao không giá trị pháp lý, khôngcó tác dụng công nhận chủ quyền liên quan tới đảo Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) của Việtnam.
Theo chúng tôi, Công Điện này chỉ có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu một thời kỳ thắm thiết « môi hở răng lạnh giữ 2 nứơc anh em đồng chí cùng chung một giừơng » và dứơi ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc đồng thời chứng tỏ ngừơi lãnh đaọ đất nứơc thiếu cảnh giác và không có tầm nhìn xa.
II- NHỮNG LẦM LẪN TAI HẠI
Sai lầm : lẫn lộn về tư cách pháp lý trong hiệp ứơc quốc tế & cách giải thích Công Điện Phạm văn Đồng tùy tiện theo cảm tính hay theo lăng kính chính trị không căn cứ vào căn bản pháp luật.
Chúng ta đều biết Hiến Pháp quốc gia là luật quốc nội thừơng ghi nhận và bảo đảm những quyền căn bản của công dân đồng thời qui định cách tổ chức và điều hành quốc gia làm sao phát triển bền vững và mang phúc lợi tối đa cho mỗi người dân.
Trong Hiến Pháp, có những điều khỏan qui định về về tư cách pháp lý (qualité juridique) của người dân, của viên chức chính quyền hay của các tổ chức dân sự hay thương mại, đựơc gọi là pháp nhân (personne juridique).
Trong Công Pháp Quốc Tế, cũng có những điều khỏan qui định về ngừơi đại diệnquốc gia hay ngừơi có thẩm quyền, không nói ngừơi có tư cách pháp lý bởi vì nó thuộc luật quốc nội qui định các điều kiện khác nhau tùy theo mỗi quốc gia.
Bởi vậy không thể áp dụng tư cách pháp lý (luật quốc nội) vào các hiệp ứơc quốc tế để yêu cầu hủy bỏ thỏa ứơc đã ký do ngươi ký không có tư cách pháp lý hay vựợt quyền (ultra vires) theo luật quốc nội như trừơng hợp nêu ra bởi một số học giả và luật gia liên quan tới câu hỏi làm sao giải thoát hoặc vô hiệu hóa Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký.
Có ngừơi lại còn yêu cầu Quốc Hội Việtnam ra nghị quyết hủy bỏ Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký cách đây 56 năm, hoăc xa hơn đòi xoá bỏ chính thể hiện nay và lập lại VNCH. Thật là ngộ nghĩnh tức cười.
Luận cứ của họ cho rằng công hàm TT Phạm Văn Đồng thực sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trừơng Sa của Việtnam tương tự lập luận của Trung Quốc nhưng, theo họ, là vô gía trị vì những lý do sau đây :
- TT Phạm Văn Đồng không có tư cách pháp lý để ký công hàm ; hoặc
- TT Phạm Văn Đồng đã vựơt quyền hạn (ultra vires); hoăc
- Công hàm ký bởi TT Phạm Văn Đồng đã không đưa ra Quốc Hội Việtnam phê chuẩn, nên thiếu sự đồng thuận (vice de consentement), hoặc vi hiến.
Các lập luận trên hoàn toàn trái với Thông Tục Quốc Tế, đặc biệt các qui định của Luật Quốc tế về hiệp ước.
Thật vậy, nếu đã coi Công hàm ký bởi TT Phạm Văn Đồng là một văn bản (hiệp ước) công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trừơng Sa của Việtnam thì giải pháp vô hiệu hóa Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký của các học giả và luật gia trên hoàn toàn lầm lạc bởi các lý do sau đây :
- Điều 27 & 46 Công Ước Vienne về hiệp ứơc không cho phép viện dẫn luật quốc nội như là tì vết (vice) của sự thỏa thuận (consentement) để hủy hiệp ứơc đã ký, hay không muốn thi hành viện dẫn lý do Công Hàm TT Phạm Văn Đồng đã không đựơc đưa ra Quốc Hội Việtnam phê chuẩn.
- Điều 7 Công Ước trên ghi rất rõ những ai là đại diện của quốc gia kết ứơc có đầy đủ quyền (pleins pouvoirs) lực ký, chuẩn nhận, đồng ý một hiệp ứơc và quốc gia đó bị trói buộc vào hiệp ứơc.
- Điều 7.2.a) : chỉ rõ ngừơi đứng đầu quốc gia, ngừơi đứng đầu chính phủ, tổng trửơng ngoại giao là những ng ười đại diện quốc gia.
- TT Phạm Văn Đồng ký Công Hàm là ngừơi đứng đầu chính phủ Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) có đầy đủ quyền lực ký và nhà nứơc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà phải bị ràng buộc.
- Nói khác đi, Nhà Nứơc Việt Nam phải tôn trọng và thi hành hiệp ứơc đựơc ký bởi ngừơi đại diện là TT Phạm Văn Đồng.
Giả sử nội vụ đựơc đưa ra Tòa An Công Lý Quốc Tế với những dữ kiện và lập luận sai lầm trên, kết qủa sẽ hết sức tai hại mà độc giả đã thấy trứơc.
III- CƠ HỘI NGÀN VÀNG ĐỂ VIỆT-NAM XÁC QUYẾT CHỦ QUYỀN TRÊN HAI NHÓM ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA.
1- Cơ hội ngàn vàng
Từ ngày TT Phạm Văn Đồng ký Công Hàm đã 56 năm, môt số không nhỏ các nhà lãnh đạo đất nứơc vẫn còn mê mẩn với các khẩu hiệu loè bịp như « các nứơc xã hội chủ nghiã đều là anh em » , rồi « 16 chữ vàng và 4 tốt » do Trung Quốc ban tặng, mặc dù chính họ đã kinh qua nhiều trận chiến tàn phá khủng khiếp 6 tỉnh biên giới Việt-Trung năm 1979, xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa năm 1974 và đảo đá Gạc Ma thuộc Trừơng Sa năm 1988.
Sự việc giàn khoan Hải Dưong 981 Trung Quốc đặt trái phép vào thềm lục địa Việtnam từ 2 tháng nay cùng kéo theo hơn 100 các tầu đủ loại, đủ cỡ để bảo vệ các hoạt động của họ cộng với thái độ ngang ngược bất nhân đối với các tầu kiểm ngư và tầu cá của Việtnam đã là một giọt nứơc làm tràn ly.
Sự kiện này có lẽ đang thức tỉnh một số quan chức còn mơ màng chỉ nhìn thấy Tầu lạ mà không thấy TÀU thiệt đã và đang giết hại ngư dân Việt từ nhiều năm nay.
Trong khi đó nhân dân cả nứơc đã tỉnh ngộ từ lâu, họ biết tầu lạ là ai. Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy Ban Công Lý Hoà Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việtnam, đã quả quyết rằng tầu lớn, tầu nhỏ, tầu lạ, tất cả đều là TẦU cả.
Ngày nay phải bổ túc câu nói trên :….. tầu lặn, tầu ngầm, tầu bay, tất cả đều là TẦU cả.
Ý dân là Ý Trời : các cuộc xuống đường hàng chục ngàn người, các cuộc hội thảo công khai về biển đảo, các kiến nghị của trí thức, các hội đoàn đủ mọi tầng lớp trong xã hội tố cáo Trung Quốc chiếm đoạt và vi phạm biển đảo Viettnam dâng cao chưa từng có phải chăng là dấu chỉ báo trước cơn đại địa chấn Tsumani ?
Trên bình diện Quốc tế, Trung Quốc đang bị kết án không tuân theo luât lệ quốc tế và muốn dùng vũ lực thay đối đơn phương nguyên trang tại biến Hoa Đông và Biển Đông.
TT Nguyễn Tấn Dũng và vài vị lãnh đạo cao cấp mới đây, đã tố cáo đích danh Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việtnam và đe dọa đưa vụ việc ra Toà Án Quốc Tế giải quyết.
Đó là tín hiệu đáng mừng ! Nhưng quan trọng là phải hành động ngay ! không phải truyền lại trách nghiệm cho các thế hệ con cháu 1000 năm sau mới đòi lại như tuyên bố của một quan chức quyền thế.
Theo thiển ý, chúng tôi nghĩ rằng Chính Quyền Việt nam không còn chọn lựa nào khác hơn là khiếu kiện Trung Quốc ra Toà Án Công Lý Quốc Tế La Haye thay vì Toà Án Trọng Tài Quốc Tế như Philippine đang tiến hành.
Việc đưa các tranh chấp ra Tòa Án Quốc Tế là một phương cách giải quyết hòa bình, bình đẳng và khách quan. Các quốc gia văn minh dân chủ coi đó là cách giải quyết rất bình thường giữa các quốc gia khi có bất đồng tranh chấp và không hề làm suy giảm tình hữu nghị.
Hiến Chương LHQ tại Điều 73 : khuyến nghị các thành viên LHQ sử dụng Tòa Án Công Lý Quốc Tế giải quyết các tranh phương chấp như là biện pháp hoà bình.
2- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
Chúng tôi đề nghi vụ khiếu kiện Trung Quốc ra Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye và nội dung khiếu kiện phải bao gồm các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hòang Sa và Trừơng Sa bởi các lý do sau đây :
a)-Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý vụ Chính Quyền Philippines khiếu nại đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Quốc tự nhận chủ quyền chiếm đến 90/100 toàn bộ biển đông vi phạm quyền, chủ quyền và quyền tài phán các biển đảo của họ đang chiếm giữ.
- Mục đích và đối tượng khiếu tố của họ đơn giản và dễ dàng giải quyết : Trung Quốc chỉ cần có chút thiện chí công nhận các quyền đó bằng một thỏa ước riêng rẽ giữ 2 nước và được phê chuẩn bởi Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý mà không tổn hại nhiều tới đường lưỡi bò 9 đoạn của họ.
Chúng tôi cũng cần lưu ý quý độc giả rằng, nếu thỏa ước đó thành hình thì nó chỉ có giá trị giữa 2 nước ký kết mà không ảnh hưởng gì tới các nước khác về đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc.
- Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, như tên gọi, cốt yếu nhằm giảng hoà, tìm đồng thuận giữa các bên để đạt tới một thỏa hiệp (compromis) mà không bắt buộc phải căn cứ vào các luật lệ quốc tế. Án lệ quốc tế đã nhiều lần minh tỏ đìều đó.
Giải pháp đó gọi là ex aequo et bono (công bình và hữu ích).
Bởi vậy, Chính Quyền Việtnam, nếu muốn giải quyết toàn bộ và dứt khoát các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hòang Sa và Trừơng Sa, nên khiếu tố trước Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye, theo chúng tôi là chọn lựa thích hợp và tốt nhất bởi các lý do trình bày dưới đây.
b)- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
- Vụ việc tranh chấp giữa Việtnam và Trung Quốc liên quan tới Hòang Sa và Trừơng Sa phức tạp hơn nhiều vì theo chúng tôi hiểu, thứ nhất là cả hai nước đều đòi chủ quyền trên toàn thể 2 nhóm đảo này và thứ hai là các chủ quyền đòi hỏi chồng chéo nhau liên quan tới nhiều quốc gia như : Việt tnam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei đối quần đảo Trường Sa và Việt tnam, Trung Quốc đối với nhóm đảo Hoàng Sa.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế (3) là cơ quan cơ quan tài phán chính yếu của Liên Hiệp Quốc có thẩm quyền bao quát các tranh chấp quốc tế tương tự như các Toà Án Trên (Cour Supérieure), còn được gọi là Toà Án Luật Chung (tribunal de droit comun) tại các nước có truyền thống pháp quyền.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, qua thủ tục có thể gíup Việtnam thông đạt tới tất cả các quốc gia thành viên LHQ, các luận cứ và chứng cứ liên quan tới Hòang Sa và Trừơng Sa thuộc chủ quyền Việtnam. Đây là một phương cách hữu hiệu nhất để các nước trên toàn thế giới biết quyền lợi chính đáng về biển đảo của Việtnam.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, cũng có thể cho mở điều tra hay lấy ý kiến chuyên môn của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi thấy cần thiết do Tòa chỉ định.
- Tòa Án cũng có thể ra án lệnh yêu cầu các bên cung cấp tài liệu cần thiết (pertinents) nhằm giải quyết vụ việc.
Đó là tính cách đặc thù về thẩm quyền bao quát (globale, universelle) của Tòa Án Công Lý Quốc Tế La Haye.
- Hơn nữa, trong vụ khiếu kiện trước Tòa Án Công Lý Quốc Tế các nước có chủ quyền chồng chéo có thể tham dự với tư cách quốc gia đệ tam (intervenant) một khi phán quyết của Toà Án có thể tổn hại tới chủ quyển của họ, như trường hợp quần đảo Trường Sa nói ở trên giữa Việt tnam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei.
Một khi đã tham dự thì phán quyết có giá trị cho tất cả.
Hy vọng những trình bày các sự kiện và giải thích (4) trên giúp độc giả có cái nhìn đứng đắn về một vấn đề cực kỳ quan trọng có nguy cơ tổn hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ biển đảo và chủ quyền độc lập Việt-nam.
Luật-sư NGUYEN LE-HA
GHI CHÚ
(1) : Theo đánh giá các chứng cứ hiện có của Trung Quốc và Việt-nam, theo chúng tôi, khả năng thắng kiện gần như chắc chắn.Tuy nhiên vấn đề còn tuỳ thuộc cách trình bày vấn đề, chọn lựa các chứng cứ (pertinents), toà án thụ lý, chiến thuật trình bày vấn đề, để làm sao bắt buộc Trung Quốc có nhiệm vụ phải chứng minh các chứng cứ về chủ quyền (charges de preuves) không phải phía Việt-nam vì các hành vi xâm phạm chủ quyền của TQ đối với VN vv…Các chứng cứ về lịch sử, chiếm hữu thực sự hòa bình, liên tục của Vietnam rất rõ ràng.Điều mà Trung Quốc không có, nên luận cứ chính của họ là Công Hàm của TT Pham văn văn Đồng ngày 14/9/1958 mặc nhiên công nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo TS & HS
Chiến thuật hiện nay của họ là thương thảo đơn phương, không chấp nhận phân xử của Toà Án Quốc Tế, và từ từ tạo ra các chứng cứ mới qui định bởi Công Ứơc Quốc Tế về luật biển 1982, bằng các rủ ngủ các nhà lãnh đạo VN bất động trong một thời gian dài với mỹ từ « chuyện trong gia đình, đời sau sẽ đòi, ngàn năm sau sẽ đòi… » .
(2) : Công Ước Viennne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités). Thông qua ngày 23/5/1969 và có hiệu lực ngày 27/01/1980.
(3) : Tòa Án Công Lý Quốc Tế được thông qua ngày 26/6/1945 và có hiệu lực ngày 24/10/1946.
(4) : Chúng tôi chỉ đưa ra vài sự kiện với lời giải thích ngắn gọn nhằm giúp độc giả dễ hiểu một điểm pháp lý quan trọng về Công Điện hay Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958. Đàng khác, ý thức đượctầm quan trọng này, chúng tôi để đồng bào, các cơ quan truyền thông (medias) trong và ngoài nước Việt-nam tùy ý sử dụng, chỉ với một điều kiện duy nhất là không được thay đổi, cắt xén thêm bớt nội dung.
Là một luật-sư chuyên nghiệp, có 3 con luật sư, hai trong ba hiện với hơn 12 năm kinh nghiệm các hồ sơ quốc tế và các toà án quốc tế, hiện một con làm việc với tư cánh luật sư cố vấn, luật sư biện hộ (co-counsel, defense lawyer) tại Tòa Án Quốc Tế tai La haye, mong đóng góp phần chuyên môn liên quan tới Hoàng Sa & Trường sa.
Trân trọng.
*Nội dung bài viết nhất thiết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Điều tuyên bố trên của Trung Quốc về việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý hoàn toàn phù hợp với đề nghị của Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Geneve từ ngày Từ 24-2 đến 29-4-1958.
Đối với Thủ Tướng Phạm văn Đồng, bức công điện đánh đi có nội dung như sau :
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.”
Chính công điện hay công hàm của TT Phạm văn Đồng này đã gây nên những tranh cãi bất tận và đối nghịch nhau đưa đến những giải thích và kết luận có nhiều điểm hoàn toàn trái với luật thông lệ quốc tế, công pháp quốc tế và luật quốc tế về hiệp ước.
Chúng tôi nhận thấy có sự nhầm lẫn căn bản là : sự lẫn lộn Luật quốc nội (droit interne) và Luật công pháp quốc tế (droit international public), và Luật quốc tếvề hiệp ước (droit international des traités) , đặt biệt Công Ước Viennne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités).
Chúng tôi sẽ giải thích sự lầm lẫn trên có thể đưa đến các kết luận tai hại qua việc đánh giá không chính xác công điện Phạm văn Đồng đồng thời với những lời giải thích này hy vọng sẽ soi sáng các quyết định của các nhà lãnh đạo Chính Quyền Việt nam can đảm nắm bắt cơ may bằng cách sử dụng cơ quan tài phán quốc tế thích hợp để Việtnam chiến thắng trên trường quốc tế liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa (1).
I- TÌM HIỂU NỘI DUNG CÔNG ĐIỆN VÀ Ý ĐỊNH CỦA TT PHẠM VĂN ĐỒNG
1)- Đọc lại từng câu, từng chữ Công Điện, chúng tôi nhận thấy mạch lạc rõ ràng (sans équivoque) : “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố…, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Đọan tiếp : Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định… hải phận 12 hải lý và còn nhấn mạnh 3 chữ cuối câutrên mặt bể.”
2)- Công Điện Phạm văn Đồng không hề nhắc đến, hay ám chỉ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Chính Phủ Việt Nam Công Hoà (VNCH), một quốc gia độc lập (indépendance) có chủ quyền (souveraineté) và được quốc tế thừa nhận tương tự như Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) với thủ đô là Hà Nội.
Sự giải thích trên đúng với qui định căn cứ theo điều 29 Công Ước Vienne về Hiệp Ứơc: thoả ứơc chỉ áp dụng trên toàn lãnh thổ của bên kết ứơc (2).
3)- Nhìn kỹ lại lời tuyên bố của Trung Quốc 4/9/1958 , trong thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Genève, chỉ cốt yếu về việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý, không phải là lời tuyên bố vể chủ quyền các đảo mặc dù lời tuyên bố có chồng chéo lên chủ quyền các đảo thuộc các nước khác như Việt Nam Công Hoà (Hoàng Sa & Trường Sa, và các nước Philippines, Malaysia, Brunei , Đài Loan (Trường Sa,).
Đằng khác, Công Pháp Quốc tế cũng chỉ cho phép tuyên bố đơn phương một đố tượng duy nhất chỉ định rõ ràng như như việc việc nới rộng biển đảo ra 12 hai lý của Trung Quốc.
Chính vì lý do đó, các quốc gia này đã không thấy cần thiết phải lên tiếng về lời tuyên bố của Trung Quốc ngoại trừ TT Phạm Văn Đồng của Chính Phủ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một quốc gia độc lập với Chính Phủ Việt Nam Công Hoà (theo Hiệp Định Geneve 1954 phân định) lên tiếng ủng hộ thông qua Công Điện nói trên.
Điều 31 Công Ước Vienne về hiệp ứơc cho biết việc giải thích thỏa ứơc phải thiện ý theo ý nghĩa bình thường trong bối cảnh thoả ứơc phát sinh và theo đối tựơng và mục đích rõ ràng trong thỏa ước.
Như vậy Công Điện Phạm văn Đồng được phát sinh gửi đi trong bối cảnh Trung Quốc tuyên bố nới rộng biển đảo ra 12 hai lý vào thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Geneve từ ngày Từ 24-2 đến 29-4-1958.
Đàng khác đối tựơng và mục đích rõ ràng ghi trong Công Điện chỉ rõ việc thừa nhận 12 hải lý mở rộng, không có một chữ, một câu nào trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Điều 32 Công Ước Vienne cũng qui định, trong trừơng hợp văn kiện mù mờ, không rõ ràng, có nguy cơ đưa tới kết luận kỳ quái (absurde) vô lý thì phải xem xét những công việc sửa sọan trước đó và những tình huống đưa tới việc ký kết văn kiện.
Thực vậy cho đến nay, trứơc thời điểm ký văn kiện, cũng như từ ngày TT Phạm văn Đồng ký gửi công điện 14/9/1958 tán thành việc nới rộng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, cho đến khi mất đã không hề tìm thấy một tài liệu nào công nhận hay mặc nhiên công nhận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Đàng khác, chúng tôi cũng không thấy có một sự kiện nào, bằng các cuộc thỏa luận thương thuyết hay văn bản trao đổi giữa Trong Quốc và Việt-nam liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa trước và sau công điện do TT Phạm văn Đồng ký ngày 14/9/1958.
Trái lại, thực tế cho thấy :
- Ngay khi Chính Phủ VNCH sụp đổ ngày 30/4/1975, quân đội của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) tiếp quản đảo Trường Sa rối giao lại cho Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) khi thống nhất đất nước 1976.
- Trận hải chiến ngày 19/1/1974 do Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Việt Nam Công Hoà (VNCH) đã làm thiệt mạng 75 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa anh dũng chiến đấu. Ngay tức thì, ngày 19/1/1974, Bộ Ngoại Giao VNCH ra tuyên cáo phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc. Tương tự, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cũng đã phản đối hành động của TQ, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
- Ngày 14/3/1988, Trung Quốc đem quân xâm chiếm các bãi đá Gac Ma, Colin và Len Dao thuộc quần đảo Trừơng Sa của Viêt nam và giết hại 64 hải quân Việt Nam ra bảo vệ.
Các sự kiện nêu trên, sau khi Chính Quyền VNCH không tồn tại, các Chính Quyền kế tiếp từ Chính Quyền CHMNVN đến Chính Quyền VNDCCH và nay là Chính Quyền XHCNVN không có một sự nhượng bộ hay thỏa ước nào được biết đến cho tới nay liên quan tới các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả các giải thích trên cho thấy, Công Điện hay Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng ký gửi ngày 14/9/1958 cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyến bố về lãnh hải 12 hải lý, chỉ là một sự tuyên bố ngoại giao không giá trị pháp lý, khôngcó tác dụng công nhận chủ quyền liên quan tới đảo Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) của Việtnam.
Theo chúng tôi, Công Điện này chỉ có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu một thời kỳ thắm thiết « môi hở răng lạnh giữ 2 nứơc anh em đồng chí cùng chung một giừơng » và dứơi ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc đồng thời chứng tỏ ngừơi lãnh đaọ đất nứơc thiếu cảnh giác và không có tầm nhìn xa.
II- NHỮNG LẦM LẪN TAI HẠI
Sai lầm : lẫn lộn về tư cách pháp lý trong hiệp ứơc quốc tế & cách giải thích Công Điện Phạm văn Đồng tùy tiện theo cảm tính hay theo lăng kính chính trị không căn cứ vào căn bản pháp luật.
Chúng ta đều biết Hiến Pháp quốc gia là luật quốc nội thừơng ghi nhận và bảo đảm những quyền căn bản của công dân đồng thời qui định cách tổ chức và điều hành quốc gia làm sao phát triển bền vững và mang phúc lợi tối đa cho mỗi người dân.
Trong Hiến Pháp, có những điều khỏan qui định về về tư cách pháp lý (qualité juridique) của người dân, của viên chức chính quyền hay của các tổ chức dân sự hay thương mại, đựơc gọi là pháp nhân (personne juridique).
Trong Công Pháp Quốc Tế, cũng có những điều khỏan qui định về ngừơi đại diệnquốc gia hay ngừơi có thẩm quyền, không nói ngừơi có tư cách pháp lý bởi vì nó thuộc luật quốc nội qui định các điều kiện khác nhau tùy theo mỗi quốc gia.
Bởi vậy không thể áp dụng tư cách pháp lý (luật quốc nội) vào các hiệp ứơc quốc tế để yêu cầu hủy bỏ thỏa ứơc đã ký do ngươi ký không có tư cách pháp lý hay vựợt quyền (ultra vires) theo luật quốc nội như trừơng hợp nêu ra bởi một số học giả và luật gia liên quan tới câu hỏi làm sao giải thoát hoặc vô hiệu hóa Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký.
Có ngừơi lại còn yêu cầu Quốc Hội Việtnam ra nghị quyết hủy bỏ Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký cách đây 56 năm, hoăc xa hơn đòi xoá bỏ chính thể hiện nay và lập lại VNCH. Thật là ngộ nghĩnh tức cười.
Luận cứ của họ cho rằng công hàm TT Phạm Văn Đồng thực sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trừơng Sa của Việtnam tương tự lập luận của Trung Quốc nhưng, theo họ, là vô gía trị vì những lý do sau đây :
- TT Phạm Văn Đồng không có tư cách pháp lý để ký công hàm ; hoặc
- TT Phạm Văn Đồng đã vựơt quyền hạn (ultra vires); hoăc
- Công hàm ký bởi TT Phạm Văn Đồng đã không đưa ra Quốc Hội Việtnam phê chuẩn, nên thiếu sự đồng thuận (vice de consentement), hoặc vi hiến.
Các lập luận trên hoàn toàn trái với Thông Tục Quốc Tế, đặc biệt các qui định của Luật Quốc tế về hiệp ước.
Thật vậy, nếu đã coi Công hàm ký bởi TT Phạm Văn Đồng là một văn bản (hiệp ước) công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trừơng Sa của Việtnam thì giải pháp vô hiệu hóa Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng đã ký của các học giả và luật gia trên hoàn toàn lầm lạc bởi các lý do sau đây :
- Điều 27 & 46 Công Ước Vienne về hiệp ứơc không cho phép viện dẫn luật quốc nội như là tì vết (vice) của sự thỏa thuận (consentement) để hủy hiệp ứơc đã ký, hay không muốn thi hành viện dẫn lý do Công Hàm TT Phạm Văn Đồng đã không đựơc đưa ra Quốc Hội Việtnam phê chuẩn.
- Điều 7 Công Ước trên ghi rất rõ những ai là đại diện của quốc gia kết ứơc có đầy đủ quyền (pleins pouvoirs) lực ký, chuẩn nhận, đồng ý một hiệp ứơc và quốc gia đó bị trói buộc vào hiệp ứơc.
- Điều 7.2.a) : chỉ rõ ngừơi đứng đầu quốc gia, ngừơi đứng đầu chính phủ, tổng trửơng ngoại giao là những ng ười đại diện quốc gia.
- TT Phạm Văn Đồng ký Công Hàm là ngừơi đứng đầu chính phủ Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) có đầy đủ quyền lực ký và nhà nứơc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà phải bị ràng buộc.
- Nói khác đi, Nhà Nứơc Việt Nam phải tôn trọng và thi hành hiệp ứơc đựơc ký bởi ngừơi đại diện là TT Phạm Văn Đồng.
Giả sử nội vụ đựơc đưa ra Tòa An Công Lý Quốc Tế với những dữ kiện và lập luận sai lầm trên, kết qủa sẽ hết sức tai hại mà độc giả đã thấy trứơc.
III- CƠ HỘI NGÀN VÀNG ĐỂ VIỆT-NAM XÁC QUYẾT CHỦ QUYỀN TRÊN HAI NHÓM ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA.
1- Cơ hội ngàn vàng
Từ ngày TT Phạm Văn Đồng ký Công Hàm đã 56 năm, môt số không nhỏ các nhà lãnh đạo đất nứơc vẫn còn mê mẩn với các khẩu hiệu loè bịp như « các nứơc xã hội chủ nghiã đều là anh em » , rồi « 16 chữ vàng và 4 tốt » do Trung Quốc ban tặng, mặc dù chính họ đã kinh qua nhiều trận chiến tàn phá khủng khiếp 6 tỉnh biên giới Việt-Trung năm 1979, xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa năm 1974 và đảo đá Gạc Ma thuộc Trừơng Sa năm 1988.
Sự việc giàn khoan Hải Dưong 981 Trung Quốc đặt trái phép vào thềm lục địa Việtnam từ 2 tháng nay cùng kéo theo hơn 100 các tầu đủ loại, đủ cỡ để bảo vệ các hoạt động của họ cộng với thái độ ngang ngược bất nhân đối với các tầu kiểm ngư và tầu cá của Việtnam đã là một giọt nứơc làm tràn ly.
Sự kiện này có lẽ đang thức tỉnh một số quan chức còn mơ màng chỉ nhìn thấy Tầu lạ mà không thấy TÀU thiệt đã và đang giết hại ngư dân Việt từ nhiều năm nay.
Trong khi đó nhân dân cả nứơc đã tỉnh ngộ từ lâu, họ biết tầu lạ là ai. Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy Ban Công Lý Hoà Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việtnam, đã quả quyết rằng tầu lớn, tầu nhỏ, tầu lạ, tất cả đều là TẦU cả.
Ngày nay phải bổ túc câu nói trên :….. tầu lặn, tầu ngầm, tầu bay, tất cả đều là TẦU cả.
Ý dân là Ý Trời : các cuộc xuống đường hàng chục ngàn người, các cuộc hội thảo công khai về biển đảo, các kiến nghị của trí thức, các hội đoàn đủ mọi tầng lớp trong xã hội tố cáo Trung Quốc chiếm đoạt và vi phạm biển đảo Viettnam dâng cao chưa từng có phải chăng là dấu chỉ báo trước cơn đại địa chấn Tsumani ?
Trên bình diện Quốc tế, Trung Quốc đang bị kết án không tuân theo luât lệ quốc tế và muốn dùng vũ lực thay đối đơn phương nguyên trang tại biến Hoa Đông và Biển Đông.
TT Nguyễn Tấn Dũng và vài vị lãnh đạo cao cấp mới đây, đã tố cáo đích danh Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việtnam và đe dọa đưa vụ việc ra Toà Án Quốc Tế giải quyết.
Đó là tín hiệu đáng mừng ! Nhưng quan trọng là phải hành động ngay ! không phải truyền lại trách nghiệm cho các thế hệ con cháu 1000 năm sau mới đòi lại như tuyên bố của một quan chức quyền thế.
Theo thiển ý, chúng tôi nghĩ rằng Chính Quyền Việt nam không còn chọn lựa nào khác hơn là khiếu kiện Trung Quốc ra Toà Án Công Lý Quốc Tế La Haye thay vì Toà Án Trọng Tài Quốc Tế như Philippine đang tiến hành.
Việc đưa các tranh chấp ra Tòa Án Quốc Tế là một phương cách giải quyết hòa bình, bình đẳng và khách quan. Các quốc gia văn minh dân chủ coi đó là cách giải quyết rất bình thường giữa các quốc gia khi có bất đồng tranh chấp và không hề làm suy giảm tình hữu nghị.
Hiến Chương LHQ tại Điều 73 : khuyến nghị các thành viên LHQ sử dụng Tòa Án Công Lý Quốc Tế giải quyết các tranh phương chấp như là biện pháp hoà bình.
2- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
Chúng tôi đề nghi vụ khiếu kiện Trung Quốc ra Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye và nội dung khiếu kiện phải bao gồm các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hòang Sa và Trừơng Sa bởi các lý do sau đây :
a)-Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý vụ Chính Quyền Philippines khiếu nại đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Quốc tự nhận chủ quyền chiếm đến 90/100 toàn bộ biển đông vi phạm quyền, chủ quyền và quyền tài phán các biển đảo của họ đang chiếm giữ.
- Mục đích và đối tượng khiếu tố của họ đơn giản và dễ dàng giải quyết : Trung Quốc chỉ cần có chút thiện chí công nhận các quyền đó bằng một thỏa ước riêng rẽ giữ 2 nước và được phê chuẩn bởi Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý mà không tổn hại nhiều tới đường lưỡi bò 9 đoạn của họ.
Chúng tôi cũng cần lưu ý quý độc giả rằng, nếu thỏa ước đó thành hình thì nó chỉ có giá trị giữa 2 nước ký kết mà không ảnh hưởng gì tới các nước khác về đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc.
- Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, như tên gọi, cốt yếu nhằm giảng hoà, tìm đồng thuận giữa các bên để đạt tới một thỏa hiệp (compromis) mà không bắt buộc phải căn cứ vào các luật lệ quốc tế. Án lệ quốc tế đã nhiều lần minh tỏ đìều đó.
Giải pháp đó gọi là ex aequo et bono (công bình và hữu ích).
Bởi vậy, Chính Quyền Việtnam, nếu muốn giải quyết toàn bộ và dứt khoát các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hòang Sa và Trừơng Sa, nên khiếu tố trước Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye, theo chúng tôi là chọn lựa thích hợp và tốt nhất bởi các lý do trình bày dưới đây.
b)- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
- Vụ việc tranh chấp giữa Việtnam và Trung Quốc liên quan tới Hòang Sa và Trừơng Sa phức tạp hơn nhiều vì theo chúng tôi hiểu, thứ nhất là cả hai nước đều đòi chủ quyền trên toàn thể 2 nhóm đảo này và thứ hai là các chủ quyền đòi hỏi chồng chéo nhau liên quan tới nhiều quốc gia như : Việt tnam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei đối quần đảo Trường Sa và Việt tnam, Trung Quốc đối với nhóm đảo Hoàng Sa.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế (3) là cơ quan cơ quan tài phán chính yếu của Liên Hiệp Quốc có thẩm quyền bao quát các tranh chấp quốc tế tương tự như các Toà Án Trên (Cour Supérieure), còn được gọi là Toà Án Luật Chung (tribunal de droit comun) tại các nước có truyền thống pháp quyền.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, qua thủ tục có thể gíup Việtnam thông đạt tới tất cả các quốc gia thành viên LHQ, các luận cứ và chứng cứ liên quan tới Hòang Sa và Trừơng Sa thuộc chủ quyền Việtnam. Đây là một phương cách hữu hiệu nhất để các nước trên toàn thế giới biết quyền lợi chính đáng về biển đảo của Việtnam.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, cũng có thể cho mở điều tra hay lấy ý kiến chuyên môn của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi thấy cần thiết do Tòa chỉ định.
- Tòa Án cũng có thể ra án lệnh yêu cầu các bên cung cấp tài liệu cần thiết (pertinents) nhằm giải quyết vụ việc.
Đó là tính cách đặc thù về thẩm quyền bao quát (globale, universelle) của Tòa Án Công Lý Quốc Tế La Haye.
- Hơn nữa, trong vụ khiếu kiện trước Tòa Án Công Lý Quốc Tế các nước có chủ quyền chồng chéo có thể tham dự với tư cách quốc gia đệ tam (intervenant) một khi phán quyết của Toà Án có thể tổn hại tới chủ quyển của họ, như trường hợp quần đảo Trường Sa nói ở trên giữa Việt tnam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei.
Một khi đã tham dự thì phán quyết có giá trị cho tất cả.
Hy vọng những trình bày các sự kiện và giải thích (4) trên giúp độc giả có cái nhìn đứng đắn về một vấn đề cực kỳ quan trọng có nguy cơ tổn hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ biển đảo và chủ quyền độc lập Việt-nam.
Luật-sư NGUYEN LE-HA
GHI CHÚ
(1) : Theo đánh giá các chứng cứ hiện có của Trung Quốc và Việt-nam, theo chúng tôi, khả năng thắng kiện gần như chắc chắn.Tuy nhiên vấn đề còn tuỳ thuộc cách trình bày vấn đề, chọn lựa các chứng cứ (pertinents), toà án thụ lý, chiến thuật trình bày vấn đề, để làm sao bắt buộc Trung Quốc có nhiệm vụ phải chứng minh các chứng cứ về chủ quyền (charges de preuves) không phải phía Việt-nam vì các hành vi xâm phạm chủ quyền của TQ đối với VN vv…Các chứng cứ về lịch sử, chiếm hữu thực sự hòa bình, liên tục của Vietnam rất rõ ràng.Điều mà Trung Quốc không có, nên luận cứ chính của họ là Công Hàm của TT Pham văn văn Đồng ngày 14/9/1958 mặc nhiên công nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo TS & HS
Chiến thuật hiện nay của họ là thương thảo đơn phương, không chấp nhận phân xử của Toà Án Quốc Tế, và từ từ tạo ra các chứng cứ mới qui định bởi Công Ứơc Quốc Tế về luật biển 1982, bằng các rủ ngủ các nhà lãnh đạo VN bất động trong một thời gian dài với mỹ từ « chuyện trong gia đình, đời sau sẽ đòi, ngàn năm sau sẽ đòi… » .
(2) : Công Ước Viennne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités). Thông qua ngày 23/5/1969 và có hiệu lực ngày 27/01/1980.
(3) : Tòa Án Công Lý Quốc Tế được thông qua ngày 26/6/1945 và có hiệu lực ngày 24/10/1946.
(4) : Chúng tôi chỉ đưa ra vài sự kiện với lời giải thích ngắn gọn nhằm giúp độc giả dễ hiểu một điểm pháp lý quan trọng về Công Điện hay Công Hàm của TT Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958. Đàng khác, ý thức đượctầm quan trọng này, chúng tôi để đồng bào, các cơ quan truyền thông (medias) trong và ngoài nước Việt-nam tùy ý sử dụng, chỉ với một điều kiện duy nhất là không được thay đổi, cắt xén thêm bớt nội dung.
Là một luật-sư chuyên nghiệp, có 3 con luật sư, hai trong ba hiện với hơn 12 năm kinh nghiệm các hồ sơ quốc tế và các toà án quốc tế, hiện một con làm việc với tư cánh luật sư cố vấn, luật sư biện hộ (co-counsel, defense lawyer) tại Tòa Án Quốc Tế tai La haye, mong đóng góp phần chuyên môn liên quan tới Hoàng Sa & Trường sa.
Trân trọng.
*Nội dung bài viết nhất thiết không phản ảnh quan điểm của RFA.
(RFA)
Không có nhận xét nào