Theo tác giả David Koh trên South
China Morning Post ngày 28/04/2020, khi đụng đến vấn đề Biển Đông, cả
Việt Nam lẫn Trung Quốc đều thấy rằng quá khứ của tình đồng chí không
thể là cơ sở cho chính sách quốc gia. Hà Nội chẳng bao lâu nữa có thể
nhận ra rằng đã bị Bắc Kinh chơi xỏ, trong khi đó Mỹ vẫn quan sát diễn
tiến trong khu vực.
Việt Nam và Trung Quốc không còn "thắm tình anh em" vì Biển Đông? |
Có
nhiều điều đã làm nên tình đồng chí giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai
quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo. Hai nước thường tuyên bố bên này là
chỗ dựa của bên kia, và nhắc lại thời kỳ anh em thân thiết, cùng chung
sức chiến đấu với đế quốc và thực dân. Tuy nhiên sự lãng mạn không thể
là nền tảng bền vững cho chính sách quốc gia.
Khi
nói đến vấn đề Biển Đông, yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam không có
điểm nào chung – cũng như mọi yêu sách về vùng biển tranh chấp. Và cũng
không có thương thảo thực sự về chia sẻ chủ quyền, cùng sử dụng, khai
thác hay cùng hợp tác về bất kỳ phương diện nào.
Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đứng ngoài cuộc trong việc nhanh
chóng giúp giải quyết căng thẳng. Hoa Kỳ nhận thấy lợi ích của mình về
tự do hàng hải trên Biển Đông bị ảnh hưởng bởi yêu sách của tất cả các
bên, và bên cạnh đó mục tiêu của Mỹ còn là chận bước Trung Quốc.
Hoa
Kỳ cũng tìm cách có được một vùng đất để đặt chân sát cạnh Biển Đông,
từ khi Philippines có thái độ thất thường trong quan hệ quân sự với
Washington. Trong số các kịch bản khác có thể kể thêm việc bảo vệ các
đối tác quốc phòng như Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời trợ giúp Đài Loan.
Các
nhà quan sát cho rằng sự thất vọng của Hà Nội về Bắc Kinh sẽ khiến Việt
Nam xoay trục sang Hoa Kỳ - vốn mong muốn có chiến lược sâu hơn và thậm
chí quan hệ quân sự gắn bó hơn với các quốc gia chủ chốt ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên Việt Nam hoàn toàn không thể chuyển nhanh sang quan hệ với Mỹ,
vì như vậy Trung Quốc có thể có phản ứng mạnh bất ngờ. Thế nên Hà Nội
tiếp tục nhấn mạnh nguy cơ nếu hoàn toàn thuận theo phía Mỹ, chẳng hạn
việc Mỹ định hình dân chủ hóa cho chính quyền cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ
trở thành quân cờ của Việt Nam nhằm đối phó với Trung Quốc.
Ý
kiến trong nước về chiến lược của Việt Nam rất khác nhau. Có những
tranh cãi trong xã hội về cách thức theo đuổi mục tiêu. Người thì cho
rằng chính quyền ngây thơ, vẫn còn chìm đắm trong lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và tình hữu nghị anh em, sẵn sàng chấp nhận tạm thời mất chủ
quyền. Người khác thấy Hà Nội đã thận trọng đúng mức, muốn tránh chiến
tranh, nhưng cũng không sợ chiến tranh nếu đó là cần thiết.
Còn
bên trong chính phủ và đảng cộng sản, các quan điểm ít khác biệt hơn,
tập trung vào sự cần thiết sử dụng nhiều cấp độ chiến thuật và chiến
lược thay vì chỉ tỏ ra hiếu chiến. Trong hai thập niên qua, Việt Nam đã
tăng tiến rất nhiều trong việc siết chặt quan hệ với các quốc gia thành
viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (mặt trận ngoại giao),
mời gọi hợp tác đa phương về quốc phòng (mặt trận quân sự), củng cố tăng
trưởng và nguồn lợi (vốn là nền tảng kinh tế của hai chiến thuật trên
đây).
Theo
tác giả, phương thức thận trọng và chậm chạp của Việt Nam đã bị các nhà
lãnh đạo Bắc Kinh khai thác, vì vấn đề quan trọng là chiếm giữ các đảo
trên Biển Đông, biến thành một chuỗi căn cứ giúp Trung Quốc có được sức
mạnh cấm đoán tàu bè các nước đi qua. Thế nên Bắc Kinh làm ngơ trước
những phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam
càng sâu sắc thêm. Tuy nhiên, sự kiên trì của Trung Quốc để một ngày nào
đó sẽ giành chiến thắng toàn diện, đã khiến cho Việt Nam không thể kéo
dài chính sách lửng lơ không muốn nghiêng hẳn sang phía khác. Có điều
không ai biết được khi nào việc xoay trục này sẽ diễn ra.
Tình
hữu nghị anh em nếu được thổi bùng trở lại, mỉa mai thay có thể giúp
giải quyết vấn đề Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam. Năm 2000, khi
giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và ký kết hiệp ước phân định, hai
bên đã có nhượng bộ lẫn nhau, và thỏa ước này được coi như điển hình cho
việc thực hiện chính sách « đồng chí tốt, láng giềng tốt ».
«
Đồng chí tốt, láng giềng tốt » là phiên bản mờ nhạt của « môi hở răng
lạnh », « tình anh em », những câu nói cửa miệng thường được sử dụng để
mô tả mối quan hệ trong thời kỳ các nhà sáng lập cộng sản Mao Trạch Đông
và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên hiệp ước năm 2000 đã đánh bạt khả năng xảy ra
một cuộc xung đột trên đất liền, và hai bên có thể tiến tới.
Liệu
Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa có thể viện đến tình hữu nghị anh em
? Tác giả David Koh cho rằng bối cảnh năm 2000 rất khác với năm 2020,
có rất nhiều sự kiện đã diễn ra, đặc biệt có ba trở ngại lớn đang ngăn
cản.
Trước
hết, Trung Quốc không còn coi Việt Nam là quan trọng về mặt tình hữu
nghị xã hội chủ nghĩa, trong khi Việt Nam vẫn còn cần tình liên đới này,
trong nỗ lực chống lại sự thôi thúc dân chủ hóa từ phía Hoa Kỳ. Từ cuối
thập niên 80, Trung Quốc đã tuyên bố với Việt Nam là quan hệ song
phương giữa đôi bên không phải là đặc biệt, không có gì khác với quan hệ
giữa Trung Quốc và các láng giềng khác.
Khó
thể tin rằng sự tham vấn giữa hai đảng cộng sản về kinh nghiệm chủ
nghĩa xã hội và những bất bình giữa đôi bên có thể tác động đến chính
sách đối ngoại của Trung Quốc với Việt Nam. Đặc biệt là trong việc chặn
bớt tốc độ bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, mà Việt Nam vô
cùng căm ghét. Tuy rất nhiều người Việt Nam lên án các hành động của
Trung Quốc trên biển, một tỉ lệ tương tự người Trung Quốc có thái độ
ngược lại. Tình hữu nghị và ý thức hệ được đặt sau lợi ích quốc gia.
Trở
ngại thứ hai là Việt Nam không mang lại cho Trung Quốc lợi ích kinh tế
hoặc chính trị quan trọng nào, để có thể một lần nữa coi Việt Nam là anh
em, hoặc nhường bước trước đòi hỏi của Việt Nam. Mối nghi ngờ lẫn nhau
vẫn nung nấu, và quan hệ kinh tế không mạnh mẽ như tiềm năng thực sự.
Cũng
như những gì đã diễn ra trong quá khứ, Việt Nam chỉ là một phần nhỏ
trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm ngăn chận sườn phía nam chống lại sự
xâm lấn của tư tưởng phương Tây. Mục tiêu rộng lớn hơn của Trung Quốc là
đạt được các lợi ích cốt lõi, quan hệ tốt với Hoa Kỳ và Nga. Nói cách
khác, Việt Nam chỉ mang lại lợi ích chiến lược nhỏ nhoi, trừ phi Hà Nội
liên kết chặt chẽ, hoặc đang trên đường liên minh với Hoa Kỳ hoặc Nga.
Trở
ngại thứ ba : có thể Bắc Kinh đã bao vây Hà Nội bằng cách siết rất chặt
quan hệ với Lào, Thái Lan và Cam Bốt, tìm cách đẩy các nước này ra xa
khỏi Việt Nam. Bên cạnh quan ngại này còn có những đồn đãi rằng Trung
Quốc thiết lập căn cứ quân sự ở Cam Bốt, tăng cường hợp tác quân sự và
kinh tế với Thái Lan.
Lào
vốn là căn cứ quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống
Pháp, cũng trở thân thiết hơn với Bắc Kinh (nước này cũng có đường biên
giới chung với Trung Quốc). Sự xâm nhập của Trung Quốc vào Lào đã trở
nên rất bền chắc. Tác giả tự hỏi không biết lần tới, khi mặt trận phía
bắc bị Trung Quốc đe dọa, Việt Nam còn có thể dựa vào Lào để đảm bảo an
toàn hay không.
Nói
cách khác, Trung Quốc đã khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt
Nam. Lợi ích của Việt Nam trong khu vực bị giảm sút, đóng vai trò thứ
yếu sau Trung Quốc, trừ phi Hà Nội nhanh chóng tăng cường năng lực quân
sự và quốc phòng.
Trong
Sách Trắng quốc phòng năm 2019, Việt Nam tái khẳng định chủ trương
không tham gia liên minh quân sự nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ
quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia. Đồng thời thêm
vào một khái niệm thứ tư là không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế. Nhưng với Sách Trắng quốc phòng mới, quan
điểm đối nghịch có thể xuất hiện trong ngày một ngày hai để tái định
hướng chính sách quốc gia, nếu Việt Nam cứ liên tục bị Trung Quốc o ép.
David Koh
*
Tác giả David Koh nghiên cứu về Việt Nam và các vấn đề khu vực từ ba
thập niên qua, hiện làm việc tại Viện hợp tác hòa bình Cam Bốt.
(RFI)
Không có nhận xét nào