Để giành được những đồng đôla phát
triển đất nước, Rodrigo Duterte đã gây tổn hại đến an ninh quốc gia của
Philippines. Quyết định chính sách đối ngoại lớn đầu tiên của Duterte là
bác bỏ chiến thắng mang tính lịch sử của Philippines trước Trung Quốc
trong vụ kiện liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên biển.
Tháng
2/2020, trên thực tế, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã chấm
dứt liên minh tồn tại cả thế kỷ của nước này với Mỹ. Bằng việc đơn
phương bãi bỏ Thỏa thuận về các lực lượng Thăm viếng (VFA) năm 1999,
cung cấp khuôn khổ hợp pháp cho phép binh lính Mỹ đóng quân và luân
chuyển trên lãnh thổ Philippines, nhà lãnh đạo Philippines đã khiến hợp
tác an ninh song phương mạnh mẽ gần như trở thành điều bất khả thi. Hiệp
ước phòng thủ chung (MDT) Mỹ-Philippines, được tạo dựng trên đống đổ
nát của Chiến tranh thế giới thứ hai, giống như một cái vỏ rỗng, một bộ
xử lý CPU không có hệ thống vận hành. VFA chính là phần mềm vận hành
MDT.
Trên
giấy tờ, liên minh này vẫn tồn tại, nhưng theo lời một quan chức cấp
cao của Philippines, giờ đây trên thực tế nó vô dụng. Hành động bãi bỏ
VFA mang tính hình thức và rất gây chú ý này là một động thái đậm chất
cá nhân, bị chính trị hóa một cách trơ trẽn và nói thẳng ra là một quyết
định hấp tấp, mà sẽ khiến Philippines dễ bị tác động trước một loạt
thách thức an ninh, trong đó có mối đe dọa chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc
gia và các điều kiện thời tiết cực đoan đã tàn phá đất nước này trong
những năm gần đây. Và không nước nào khác ngoài Trung Quốc, được dự đoán
là kẻ thắng lợi lớn nhất trong nước cờ thí tốt gần đây của Duterte.
Trao đổi với Trung Quốc
Dù
quyết định gần đây của Duterte dường như gây sốc, nhưng nó hoàn toàn
không bất ngờ. Tác giả nhớ lại thời gian căng thẳng cuối cùng trong các
cuộc bầu cử tổng thống ở Philippines năm 2016, khi cựu Thị trưởng Davao
từ một ứng cử viên ít tiếng tăm biến thành người có triển vọng thành
công không thể tranh cãi. Đột nhiên, các bài phát biểu của ông, vốn
thường pha trộn những tính từ đầy màu sắc và lời lẽ táo bạo, đã trở nên
quan trọng chưa từng thấy, và giờ đây đáng được phân tích kỹ lưỡng và tỉ
mỉ.
Về
chính sách đối ngoại, 2 bài phát biểu công khai của Duterte đã khiến
tác giả chú ý. Bài phát biểu thứ nhất là ở Palawan, hòn đảo cực Tây của
Philippines, nằm trong vùng biển tranh chấp trên Biển Đông và quần đảo
Trường Sa có giá trị. Bài phát biểu này đặc biệt có liên quan, vì gần
như cả thế giới chú trọng đến phần ít quan trọng nhất, đặc biệt là khi
Duterte nói châm biếm về việc đi mô-tô nước và sẵn sàng mang theo cờ tổ
quốc đến quần đảo Trường Sa để dụ Trung Quốc đến và chiến đấu bằng vũ
lực hoặc súng ống nếu cần thiết để bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của
Philippines ở khu vực này.
Tuy
nhiên, khi xem xét cẩn thận toàn bộ bài phát biểu này, nó cho thấy một
xu hướng đáng lo ngại, đó là thái độ tôn trọng không thể lý giải nổi,
nếu không muốn nói là sự phục tùng rõ ràng của Duterte đối với Trung
Quốc trước tâm điểm chú ý của toàn bộ công chúng. Khi nói chuyện với
Trung Quốc, cựu thị trưởng Davao không hề dùng giọng điệu mỉa mai hay có
bất kỳ nỗ lực nào nhằm tiết chế tuyên bố của mình, ông nêu rõ: “Nếu
các ông xây dựng cho tôi một tuyến đường sắt bao quanh Mindanao, hãy xây
dựng một tuyến đường sắt từ Manila đến Bicol … một tuyến đến Batangas,
thì trong 6 năm làm tổng thống, tôi sẽ giữ im lặng về các tranh chấp
trên Biển Đông”.
Bài
phát biểu thứ hai thậm chí còn thú vị hơn. Trong đó, kênh truyền hình
trung ương Trung Quốc CCTV-9 (sau đó được đổi tên thành CGTN – mạng
truyền hình toàn cầu Trung Quốc) đã phỏng vấn hai ứng cử viên tổng thống
dẫn đầu khi đó là Thượng nghị sĩ Grace Poe-Llamanzares và Duterte. Tại
đây chúng ta có thể thấy một Duterte hoàn toàn khác: Ông là một nhà
chính trị tài ba không thể nhận ra, nhất quán đầy ấn tượng và rất tôn
trọng Trung Quốc (khi nắm quyền, nhìn chung ông hành động theo lối tương
tự trong nhiều chuyến thăm đến Trung Quốc). Người sẽ sớm trở thành tổng
thống đã trơ trẽn nhắc lại yêu cầu của mình: “Điều tôi cần từ Trung
Quốc là giúp phát triển đất nước”. Đổi lại, ông sẽ giảm bớt hợp tác an
ninh với Mỹ, và điều quan trọng là xem thường phán quyết mang tính bước
ngoặt chống lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Người dẫn chương trình này là người Trung Quốc, tự tin nói: “Duterte
nói ông sẽ không trông cậy vào việc người Mỹ đến giúp đỡ Philippines và
thậm chí sẽ xem xét bác bỏ vụ kiện Trung Quốc của Chính quyền Aquino”.
Công bằng mà nói, nhìn chung Duterte minh bạch về tầm nhìn địa chính
trị của mình, dù hầu như không ai ở trong nước coi trọng hay hiểu lời
ông nói theo nghĩa đen. Ông đã giành chiến thắng một cách ngoạn mục, dễ
dàng đánh bại 2 đối thủ hàng đầu từng đi du học ở Mỹ là Bộ trưởng Nội vụ
Manuel Roxas II (học trường Đại học Wharton) và Thượng nghị sĩ Grace
Poe (học trường Đại học Boston). Hai người này đều ủng hộ mối quan hệ
khăng khít với Mỹ để kiềm chế chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc.
Theo chân nhà lãnh đạo
Khi
cầm quyền, Duterte đã làm chính xác những gì ông hứa hẹn trên chương
trình truyền hình Trung Quốc. Quyết định chính sách đối ngoại lớn đầu
tiên của ông khi chỉ vừa nhậm chức được 1 tháng là bác bỏ chiến thắng
lịch sử của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc. Tổng thống Philippines
lạnh lùng tuyên bố rằng ông sẽ gạt phán quyết của Tòa trọng tài tại La
Hay, bác bỏ đa số tuyên bố chủ quyền bành trướng của Bắc Kinh ở các vùng
biển lân cận sang một bên vì lợi ích phát triển mối quan hệ nồng ấm hơn
với Trung Quốc.
Đồng
thời, trong các chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của mình, bắt đầu với
Trung Quốc, Duterte thậm chí còn thẳng thừng hơn về việc ông lợi dụng
liên minh Mỹ-Philippines: “Tôi muốn, có thể trong 2 năm tới, đất nước
của tôi sẽ không còn có sự hiện diện của binh lính nước ngoài. Tôi muốn
người Mỹ biến mất khỏi đây”. Một nửa chặng đường trong nhiệm kỳ 6 năm
cầm quyền đã trôi qua, trên thực tế, Duterte đã thực hiện được lời đe
dọa trước đây của mình. Ban đầu, tin tức về việc bãi bỏ VFA vấp phải sự
hoài nghi, nhiều người tự hỏi rằng liệu Tổng thống có sẵn lòng liều lĩnh
đẩy giới chức quốc phòng và nói rộng hơn là người dân Philippines, vốn
coi trọng liên minh đã tồn tại cả thế kỷ của nước này với Mỹ, ra xa hay
không.
Xét
cho cùng, nhiều quan chức hàng đầu của Philippines, cũng như một vài
tổng thống, đã được đào tạo ở Mỹ trong suốt hàng thập kỷ hợp tác quốc
phòng giữa hai bên. Trong Chiến tranh Lạnh, Philippines là nơi có các
căn cứ nước ngoài lớn nhất của Mỹ ở Subic và Clark. Chỉ một vài năm
trước, người dân Philippines còn yêu thích nước Mỹ hơn chính người Mỹ.
Hiện nay, Mỹ vẫn là đối tác nước ngoài được yêu thích nhất của
Philippines. Trái lại, tỷ lệ ủng hộ Trung Quốc luôn ở mức âm, đạt mức
thấp mới (-33%) vào năm 2019 trong bối cảnh diễn ra những tranh chấp âm ỉ
ở Biển Đông và dòng chảy đầu tư bất hợp pháp của Trung Quốc vào
Philippines.
Dù
liên minh Mỹ-Philippines không hề hoàn hảo, nhưng Lầu Năm Góc là nguồn
hỗ trợ then chốt cho quốc gia Đông Nam Á này trong suốt giai đoạn hậu
Chiến tranh Lạnh. VFA đã tạo điều kiện cho gần 2 tỷ USD tiền viện trợ
cho Philippines. Con số này không nhiều khi so với những gì các nước
không phải đồng minh của Mỹ như Pakistan và Ai Cập nhận được trong những
thập kỷ qua. Tuy nhiên, chất lượng viện trợ của Mỹ mang tính quyết
định, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác an ninh phi truyền thống.
Đáng
chú ý nhất là Mỹ vô cùng hữu ích trong hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu
trợ thiên tai, trong đó có việc triển khai 1 tàu sân bay, 66 máy bay và
13.400 binh lính đến Philippines khi siêu bão Hải Yến đổ bộ và tàn phá
phần lớn khu vực trung tâm nước này vào năm 2013. Và gần đây hơn, Mỹ đã
giúp huấn luyện Lực lượng đặc nhiệm, cung cấp vũ khí tiên tiến, hoạt
động tình báo và giám sát trong thời gian thực vô cùng cần thiết trong
vụ các tay súng Hồi giáo bao vây Marawi trong nhiều tháng.
Hơn
nữa, Chính quyền Trump cũng tăng cường hỗ trợ an ninh trên biển cho
Philippines, bao gồm thông qua hỗ trợ phòng thủ ngày càng tăng, những sự
đảm bảo hỗ trợ rõ ràng hơn ở Biển Đông, và cải thiện một cách thích hợp
các khả năng của Lực lượng bảo vệ bờ biển và khả năng giám sát của
Philippines. Chắc chắn, vẫn còn có cơ hội lớn để cải thiện quan hệ. Tuy
nhiên, quan hệ song phương đã sụp đổ sau lời đe dọa của Tổng thống
Philippines về việc cắt đứt quan hệ an ninh nhằm phản ứng trước tin Mỹ
cấm cửa các quan chức Philippines vì những quan ngại về nhân quyền, đặc
biệt là đối với cựu cảnh sát trưởng, đồng minh lâu năm của Duterte,
Ronald dela Rosa.
Có
khả năng Duterte hy vọng sẽ phỉnh phờ Mỹ rút lại các biện pháp trừng
phạt đã và sắp được ban hành đối với giới thân cận của ông bằng cách
thúc đẩy VFA. Tuy nhiên, Tổng thống Donald Trump nói rõ rằng ông đồng ý
chấm dứt thỏa thuận nếu việc làm đó tiết kiệm nhiều tiền bạc cho Mỹ. Đây
là một sự đảo ngược ấn tượng đối với hai đồng minh, từng tiến hành gần
300 hoạt động quân sự chung trong năm 2019, nhiều nhất trong số các đối
tác của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Giờ đây, mọi thứ đều
diễn ra đột ngột, ít nhất một nửa trong số 318 hoạt động quân sự chung
theo kế hoạch trong năm 2020 đang có nguy cơ bị hủy bỏ. Các cuộc tập
trận song phương có thể trở thành con số 0 trong những năm cuối cùng
Duterte cầm quyền. Giờ đây, thậm chí còn có các cuộc thảo luận về khả
năng có một VFA giữa Philippines với Nga và Trung Quốc, các đối thủ
chính của Mỹ. Chúng ta cũng không thể loại bỏ khả năng về một sự thay
đổi triệt để vào phút chót, khi các quan chức của cả hai chính quyền
liều lĩnh tìm cách cứu vãn liên minh đã tồn tại cả thế kỷ này. Còn có
một lý do khác để nghi ngờ bài luận “Sự cáo chung của lịch sử” trong một
thế kỷ với sự bối rối về chính trị, sự pha tạp về hệ tư tưởng và tính
khó lường trước đầy nguy hiểm.
Richard Javad Heydarian
Giới thiệu: Minh Anh
* Richard Javad Heydarian là Phó Giáo sư về các vấn đề quốc tế, khoa học
chính trị tại Đại học De La Salle, từng là cố vấn chính sách tại Hạ
viện Philippines. Bài viết được đăng trên The National Interest.
(Nghiên cứu Quốc tế)
Không có nhận xét nào