Vựa rau trái và tôm cá này sẽ đi về đâu nếu ĐBSCL sẽ nằm dưới mực nước biển 1m sau 50 năm tới? |
“Còn
mẹ ăn cơm với cá”. Từ ngàn đời, mẹ thiên nhiên nuôi dưỡng người Việt
bằng nguồn cơm và cá ngon lành của mình. Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)
mang lại gần 60% lúa và 40% thủy sản cho cả nước. Một mảnh đất chỉ
chiếm khoảng 1/8 diện tích cả nước đang là lao động chính cung cấp bữa
cơm cho gia đình đất nước Việt Nam. Và theo các dự báo khoa học thì
trong vòng từ 50 đến 100 năm nữa, mảnh đất đó có nguy cơ nằm dưới mực
nước biển 1 mét, do tác động của biến đổi khí hậu. Diễn đạt điều này
theo góc nhìn bi quan nhất thì hơn 17 triệu dân ĐBSCL sẽ không còn đất
sống, người Việt sẽ phải lăn lộn tìm nguồn cơm và cá khác.
Tuy
nhiên, nhìn ở góc độ chừng mực hơn thì biến đổi khí hậu sẽ đem lại các
hệ quả kinh tế gì cho ĐBSCL và cả nước? Các hiện thực trước mắt, mặc dù
nhẹ nhàng hơn viễn cảnh không còn đất sống trong 100 năm nữa, nhưng vẫn
tạo ra những cơn đau đầu không hề nhẹ với người dân và nhà quản lý. Báo
chí liên tục đưa tin các đợt triều cường cuối năm 2019 đang xâm chiếm
Cần Thơ, Rạch Giá, Long Xuyên và nhiều đô thị khác của đồng bằng. Đầu
năm 2020, người dân ĐBSCL lại chứng kiến các đợt xâm nhập mặn vào đến
hơn 100 km sâu trong đất liền. “Hơn 5000 ha lúa đông xuân của tỉnh Bến
Tre có nguy cơ mất trắng vì nước mặn” là một tin tức điển hình về biến
đổi khí hậu hiện nay ở Việt Nam. Sẽ không chính xác nếu tờ báo xếp tin
này vào mục môi trường. Cần đưa vào mục kinh tế - xã hội.
Biến
đổi khí hậu tạo ra các tác động kinh tế xã hội sâu rộng, không những
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp mà còn làm thay đổi các cấu
trúc cung-cầu hàng hóa và dịch vụ của hầu hết mọi ngóc ngách của nền
kinh tế. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, làm giảm
năng suất lao động. Triều cường và ngập mặn làm thiệt hại cơ sở hạ tầng
nông nghiệp và khu vực đô thị. Biến đổi khí hậu cũng làm biến đổi hệ
sinh thái rừng và đất ngập nước, mà hệ sinh thái này chính là mạch sống
của ĐBSCL, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất, giảm thiệt hại do
thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học.
Trong
đánh giá tác động kinh tế của biến đổi khí hậu, viễn cảnh cả đồng bằng
chìm trong nước biển sau 100 năm gây ấn tượng mạnh, dễ làm người ta quên
các tác động từ từ nhưng dai dẳng lâu dài. Sự thay đổi khí hậu trong
từng năm, tác động làm biến đổi các khu vực kinh tế khác nhau mới là
viễn cảnh thực tế chúng ta cần xem xét.
Nước
biển dâng và triều cường sẽ là nguy cơ biến đổi khí hậu lớn nhất ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long1. Nước biển dâng gây hiện tượng nhiễm mặn trên diện
rộng, triều cường làm ngập lụt đô thị ngày càng nặng nề, các cơn bão
xuất hiện thường xuyên hơn, với cường độ mạnh hơn sẽ là mối đe dọa mới
với ĐBSCL, nơi mà người dân trong nhiều trăm năm đã quen, đã thiết kế
cuộc sống và sản xuất của mình dựa trên niềm tin “mưa thuận gió hòa”. Ở
mức độ thấp hơn các hiện tượng thời tiết bất thường và bão cũng là những
mối đe dọa khí hậu đang tăng lên theo thời gian. Nhiệt độ tăng và lượng
mưa thay đổi ở ĐBSCL cũng đóng góp làm thay đổi các hoạt động kinh tế
của con người.
Như
vậy, đến năm 2050, nếu vẫn án binh bất động không có biện pháp thích
ứng với biến đổi khí hậu, thiệt hại này với nuôi cá tra sẽ tăng lên gần 9
triệu đồng/ha/năm, và với nuôi tôm sẽ đạt tới con số thiệt hại rất lớn:
950 triệu đồng cho một ha trong một năm.
Ảnh hưởng với nông nghiệp
Biến
đổi khí hậu tác động đến sản xuất nông nghiệp qua ba kênh: tăng nhiệt
độ, thay đổi lượng mưa và nước biển dâng. Nhiệt độ tăng, đặc biệt các
đợt nắng nóng kéo dài, lượng mưa giảm vào mùa khô, mưa trái mùa sẽ ảnh
hưởng đến vòng đời sinh thái của cây trồng, vật nuôi từ đó làm thay đổi
sản lượng. Thay đổi nhiệt độ và lượng mưa cũng làm tăng khả năng nhiễm
bệnh của vật nuôi và con người, làm tăng nguy cơ xuất hiện và phân tán
dịch bệnh. Nước biển dâng làm mất đất canh tác và tạo ra hiện tượng xâm
nhập mặn vào sâu trong hệ thống thủy lợi, ảnh hưởng trực tiếp đến sản
lượng nông nghiệp.
Các
mô hình dự báo tác động của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL do Ngân hàng thế
giới và Bộ Tài nguyên và Môi trường đều cho thấy sản xuất nông nghiệp
ĐBSCL chịu tác động lớn nhất từ ngập lũ và nước biển dâng. Đặc biệt
trong thời gian gần đây, xâm nhập mặn đến sớm và gia tăng mức độ, tác
động trực tiếp đến hoạt động nông nghiệp ngay cả ở các địa phương ở sâu
trong nội đồng.
Tuy
tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của ĐBSCL đang giảm dần từ 48% năm 2005
đến nay còn khoảng 28%, nông nghiệp vẫn đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong kinh tế ĐBSCL, tạo ra việc làm và thu nhập cho bộ phận lớn dân cư
của đồng bằng. Do đó tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực nông
nghiệp dưới khía cạnh kinh tế sẽ kéo theo hệ quả rất lớn ở khía cạnh xã
hội, văn hóa, giáo dục, hay y tế.
Cho
đến nay lúa gạo vẫn là sản phẩm chủ lực của nông nghiệp ĐBSCL. Theo
tính toán của Ngân hàng Thế giới1, thì với kịch bản nước biển dâng 50cm
vào năm 2050, ngập nước làm thiệt hại 193,000 ha và xâm nhập mặn ảnh
hưởng đến 294,000 ha lúa ở ĐBSCL. Thiệt hại hơn 500,000 ha diện tích
trồng lúa này tương đương với khoản tổn thất 2.6 triệu tấn lúa/năm, hay
13% sản lượng lúa của đồng bằng, nếu chính quyền và người dân không có
chiến lược và thực hiện hành động thích ứng nào.
Đã
có nhiều ý kiến cho rằng cần phải cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở
đây, với hi vọng kéo theo thay đổi trong tốc độ tăng trưởng kinh tế và
phân phối thu nhập của người dân. Tuy nhiên ngay cả khi quyết định
chuyển từ tập trung vào lúa gạo sang nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông
nghiệp ĐBSCL vẫn chịu thiệt hại do biến đổi khí hậu. Xâm nhập mặn làm
giảm năng suất nuôi thủy sản. Nhiệt độ tăng làm tăng khả năng phát sinh
dịch bệnh cho tôm cá nuôi. Triều cường, giông lốc, ngập úng làm hư hỏng
hạ tầng sản xuất như ao nuôi và các thiết bị nuôi.
Ngân
hàng thế giới cũng đã ước tính, hiện tại mỗi hecta nuôi cá tra chịu tổn
thất giá trị khoảng 3 triệu đồng/năm, nuôi tôm là 130 triệu đồng/năm.
Như vậy, đến năm 2050, nếu vẫn án binh bất động không có biện pháp thích
ứng với biến đổi khí hậu, thiệt hại này với nuôi cá tra sẽ tăng lên gần
9 triệu đồng/ha/năm, và với nuôi tôm sẽ đạt tới con số thiệt hại rất
lớn: 950 triệu đồng cho một ha trong một năm.
Tác động đến tăng trưởng kinh tế và tiêu dùng
Ở
mức độ toàn cầu, báo cáo của IPCC3 dự đoán đến năm 2060, nếu tiếp tục
tốc độ thải khí nhà kính như hiện nay, thì GDP toàn cầu có thể bị sụt
giảm từ 1.0% đến 3.3% do biến đổi khí hậu. Với ĐBSCL và Việt Nam, Ngân
hàng Thế giới1 dự báo con số này vào khoảng 2.3%, trong khi Bộ Tài
nguyên và Môi trường ước tính lạc quan hơn, khoảng 0.7% giảm trong GDP.
Nhưng
điều đáng lo ngại là nhóm bị tác động kinh tế lớn nhất do biến đổi khí
hậu lại là người nghèo, nhất là ở khu vực nông thôn. Nhóm 25% người
nghèo nhất được dự báo là sẽ bị biến đổi khí hậu làm giảm 4.5% chi tiêu,
trong khi nhóm giàu nhất chỉ chịu tác động giảm 0.6%. Ở nông thôn, nhóm
nghèo nhất bị giảm chỉ tiêu 6.5%. Nghĩa là xâm nhập mặn, tăng nhiệt độ
và mưa trái mùa có thể làm nhóm nông dân nghèo nhất của ĐBSCL bị mất 6.5
đồng trong 100 đồng chi tiêu hằng ngày.
Khoản
chi tiêu sụt giảm này có thể dẫn đến hệ quả về giảm đầu tư của hộ gia
đình cho giáo dục hay chăm sóc sức khỏe, đem lại tác động lâu dài làm
giảm năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực cho nền kinh tế.
Năng suất lao động
Nhiệt
độ cao, đặc biệt là các đợt nắng nóng gây sốc nhiệt, kết hợp với độ ẩm
cao, có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người lao động, nhất là
với các công việc thực hiện ngoài trời như của nông dân, công nhân xây
dựng hoặc công nhân trong các nhà xưởng không có điều hòa nhiệt độ. Các
nhà khoa học đã dự báo rằng, đến năm 2050 nắng nóng và độ ẩm cao có thể
làm giảm 20% năng suất lao động trên toàn cầu (theo công bố của Dunne
năm 2013 trên tạp chí Nature2). Mức thiệt hại này là cực kỳ to lớn nếu
tính cho các nước đang phát triển, nơi mà năng suất lao động đóng góp
quan trọng vào cơ cấu tăng trưởng GDP.
Còn
tính riêng ở ĐBSCL, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm năng suất của người
lao động trong khu vực nông nghiệp một khoản tương đương gần 4 triệu
đồng một năm đối với một nông dân (Báo cáo của Viện Tài nguyên thế
giới5). Trong lĩnh vực xây dựng, năng suất lao động của một công nhân
xây dựng có thể giảm khoảng 8.7 triệu đồng một năm, do các yếu tố tăng
nhiệt độ và độ ẩm cao trong môi trường làm việc. Khoản thiệt hại này
tương đương 1.5 tháng làm việc của công nhân. Dưới góc độ quản lý công
trình xây dựng, nhà quản lý cần phải tăng số lượng công nhân hoặc kéo
dài thời gian thi công để bù đắp khoản sụt giảm năng suất lao động này.
Thiệt hại cơ sở hạ tầng
Nước
biển dâng và triều cường tác động trực tiếp đến cơ sở hạ tầng. Hạ tầng
không chỉ là mạng lưới đường xá mà là hệ thống công trình liên kết chặt
chẽ đóng vai trò xương sống cho mọi hoạt động của nền kinh tế và cuộc
sống con người: cầu, đường, hệ thống truyền tải điện, hệ thống cáp
internet, cảng biến và hàng không, công trình thủy lợi và các khu vực
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Nghiên
cứu của Viện Tài nguyên thế giới3 tính toán rằng với kịch bản nước biển
dâng 0.3m và ngập 0.5m, thiệt hại cơ sở hạ tầng ở thành phố Cần Thơ có
thể lên đến 2 tỷ USD trong 1 năm, và với thành phố Vĩnh Long là khoảng
500 triệu USD. Thiệt hại cơ sở hạ tầng nông thôn ĐBSCL do biến đổi khí
hậu được ước tính vào khoảng 11 tỷ USD một năm, tập trung phần lớn ở Cà
mau, Kiên Giang và Bến Tre.
Thiệt
hại cơ sở hạ tầng do biến đổi khí hậu không chỉ là việc một khu vực đô
thị bị ngập nước triều cường hay kè bờ biển bị sóng đánh sạt lở. Thiệt
hại quan trọng nhưng khó thấy hơn là khi con người nhìn thấy, nghe thấy
sự sạt lở, sự ngập lụt, nhận thức về rủi ro của họ bị tác động mạnh và
bắt đầu thay đổi. Nhận thức thay đổi dẫn đến hành vi thay đổi. Các khoản
đầu tư hay chi tiêu dự định cho khu vực hạ tầng bị ảnh hưởng bởi biến
đổi khí hậu có thể sụt giảm nhanh hơn dự kiến. Biến đổi khí hậu tạo ra
sự thiệt hại kép: vừa từ chính nó và vừa từ sự sợ hãi do nó mang lại.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ở ĐBSCL
Nước
biển dâng tấn công trực tiếp và dần dần xóa sổ rừng ngập mặn. Nghiên
cứu của IPCC4 cho thấy với kịch bản nước biển dâng 1 mét đến cuối thể kỷ
này, ĐBSCL sẽ mất 70% diện tích rừng ngập mặn hiện có. Mà theo báo cáo
mới đây của Viện Chiến lược chính sách tài nguyên môi trường5, hệ sinh
thái rừng ngập mặn ở ĐBSCL có giá trị kinh tế vào khoảng 2.950 tỷ
đồng/năm. Nghĩa là đến cuối thế kỷ này, nước biển dâng có khả năng xóa
sổ khoảng 2.000 tỷ đồng hằng năm cho riêng những đóng góp của hệ sinh
thái rừng ngập mặn ĐBSCL cho nền kinh tế như cung cấp gỗ, sản phẩm ngoài
gỗ, chức năng bảo vệ bờ biển, điều hòa khí hậu, hỗ trợ nuôi trồng thủy
sản, hấp thu carbon, cung cấp dịch vụ du lịch và đa dạng sinh học.
Kết luận
Tác
động kinh tế của biến đổi khí hậu là quá trình diễn ra trong thời gian
dài và chứa đựng rất nhiều yếu tố không chắc chắn. Các con số tính toán ở
trên dựa trên các giả định không có sự can thiệp chính sách, không có
các biến động toàn cầu và dựa trên các kịch bản biến đổi khí hậu trong
tương lai. Tuy nhiên, không vì sự bất định này mà chúng ta không biết
làm gì với các con số. Những con số đó là cảnh báo, đầu vào cần thiết
cho việc xây dựng chính sách sống chung với biến đổi khí hậu, thiệt hại
do biến đổi khí hậu trong khu vực sản xuất nông nghiệp có thể được giảm
thiểu rất nhiều nếu nhà nước đầu tư vào các biện pháp thích ứng một cách
hiệu quả. □
Phạm Khánh Nam
(Tia Sáng)
Không có nhận xét nào