Hình minh họa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (giữa) và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nâng cốc tại Hà Nội hôm 5/11/2015 |
Chính sách ngoại giao bẫy nợ là gì?
Trong
Chiến lược Quốc phòng Quốc gia năm 2018 của Hoa Kỳ, phía Hoa Kỳ đã cảnh
báo là Trung Quốc đang sử dụng chính sách “kinh tế cưỡng đoạt” để nhằm
đạt được những mục tiêu chiến lược tại khu vực châu Á cũng như trên toàn
cầu.[1] Một trong những hình thức của chính sách “kinh tế cưỡng đoạt”
đó chính là chính sách “ngoại giao bẫy nợ” được giăng ra với các nước
đang và chậm phát triển.
“Chính
sách ngoại giao bẫy nợ” được một số nhà nghiên cứu của Trường đại học
Harvard giải thích “là một kỹ nghệ đang được Trung Quốc gia tăng áp dụng
để tận dụng các khoản nợ cộng dồn lại, từ đó đạt được các mục tiêu
chiến lược mà Trung Quốc đã đặt ra”.[2] Theo đó, có 3 mục tiêu chiến
lược quan trọng mà các “bẫy nợ” của Trung Quốc giăng ra để đạt được, đó
là: 1) Thiết lập trên thực tế chiến lược “chuỗi ngọc trai” để có thể chi
phối được khu vực châu Á; 2) Làm suy yếu mạng lưới đồng minh và đối tác
của Hoa Kỳ, để Trung Quốc có thể nắm ưu thế tại biển Đông; 3) Hỗ trợ
Hải quân Trung Quốc vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất để có thể vươn ảnh hưởng
ra khu vực Thái Bình Dương.
Cách
thức thực hiện chính sách “ngoại giao bẫy nợ” này được Cựu Ngoại trưởng
Hoa Kỳ, Rex Tillerson tóm tắt: “Khuyến khích sử dụng các hợp đồng không
rõ ràng, thực hiện các khoản vay mang tính chất cưỡng đoạt, đi đến các
thoả thuận bằng các phương cách tham nhũng, từ đó đẩy các quốc gia vay
mượn lún sâu vào nợ nần, từ đó họ phải bán rẻ chủ quyền của chính
họ…”[3]
Báo
chí gần đây nhắc đến trường hợp nhiều quốc gia vướng phải bẫy nợ phải
bán rẻ chủ quyền cho Trung Quốc như trường hợp Srilanka đối với việc
phải bắt buộc cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota với thời hạn 99 năm,
sau khi không trả nổi món nợ khổng lồ từ Trung Quốc.
Tuy
nhiên, câu chuyện Việt Nam lại gần như không được nhắc tới như các “nạn
nhân” của chính sách “kinh tế cưỡng đoạt” này của Trung Quốc.
Việt Nam vướng vào “bẫy nợ” của Trung Quốc
Mặc
dù báo chí nước ngoài không nhắc tới, báo chí Việt Nam thì không được
phép nhắc tới việc này, nhưng chúng ta có thể tìm hiểu để thấy được thực
sự Việt Nam đã và đang trở thành “nạn nhân” của chính sách này hay
không.
Với
vị trí là một quốc gia có bờ biển chạy dọc biển Đông, Việt Nam đóng một
vai trò quan trọng trong các quốc gia ven biển Đông, và Việt Nam cũng
đang là một bên “cứng đầu” chống lại tham vọng của Trung Quốc ở biển
Đông. Chính vì vậy, các quan hệ ngoại giao hay kinh tế giữa Việt Nam -
Trung Quốc cũng không thể tách ra khỏi bối cảnh này. Và vì thế cũng
không có chuyện, Trung Quốc chỉ áp dụng chính sách “ngoại giao bẫy nợ”
với các quốc gia khác, mà hơn hết, Trung Quốc hiểu rằng khó có thể dùng
biện pháp quân sự với Việt Nam, nhưng dùng các “biện pháp kinh tế cưỡng
đoạt” thì dễ hơn nhiều.
Báo
chí Việt Nam gần đây đang xôn xao về một loạt sự kiện liên quan đến các
khoản đầu tư từ Trung Quốc. Trong khuôn khổ bài báo này, sẽ điểm một số
trường hợp cụ thể để xem xét. Tiêu biểu là trường hợp tuyến đường sắt
nội ô Cát Linh - Hà Đông ở Hà Nội; Dự án đường sắt Lào cai - Hà Nội -
Hải Phòng; Nhà máy đạm Ninh Bình và Nhà máy gang thép Thái Nguyên.
1. Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông
Tuyến
đường sắt này thực hiện từ khoản vay 250 triệu USD từ Ngân hàng Xuất
nhập khẩu Trung Quốc, do Công ty Hữu hạn tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung
Quốc làm tổng thầu thi công. Dự án này khởi công từ năm 2011 và đến nay
vẫn chưa thể vận hành, nhưng đã đến hạn phải trả tiền lãi cho Ngân hàng
Trung Quốc khoảng 650 tỉ đồng/ năm.[4]
2. Dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải phòng
Cuối
tháng 11/2019, dư luận Việt Nam rộ lên việc Bộ giao thông vận tải Việt
Nam đang triển khai lập kế hoạch chi tiết cho tuyến đường sắt Lào Cai -
Hà Nội - Hải Phòng. Thông tin từ báo chí cũng cho biết là Chính phủ
Trung Quốc sẵn sàng tài trợ số tiền 10 triệu nhân dân tệ, tương đương
33,4 tỉ đồng để khảo sát lập quy hoạch cho dự án này. Các nhà nghiên cứu
cho rằng, tuyến đường sắt này thực sự không đáp ứng nhu cầu đi lại cùa
người dân mà chiếm vốn đầu tư ban đầu lên tới khoảng 100.000 tỉ đồng là
quá phung phí. Chưa kể như người phương Tây hay nói “không có bữa trưa
nào là miễn phí” để giải thích việc không phải bỗng dưng mà phía Trung
Quốc “cho không” hơn 33 tỉ đó.
3. Nhà máy đạm Ninh Bình
Theo
phân tích của các chuyên gia thì nhà máy Đạm Ninh Bình đang phải gồng
mình trả khoản nợ 5.000 tỷ đồng với lãi suất 4%/năm cho Ngân hàng
Eximbank Trung Quốc. Và nguồn vốn mà Chính phủ Trung Quốc cho phía Việt
Nam vay đầu tư nhà máy Đạm Ninh Bình thông qua Eximbank không phải là
vốn ODA.
Theo
thông lệ quốc tế, ODA là hình thức cho vay đặc biệt bởi tính lợi nhuận
không cao, nó là các quan hệ hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển. Các
nước đi tiên phong thường viện trợ hoặc cho các nước chậm phát triển
vay ưu đãi, hỗ trợ họ nhanh chóng ngang bằng với các nước khác ở nhiều
phương diện nhằm tạo ra một hệ thống phát triển tương đồng hơn.
Nhưng khi vay tiền của Exim bank Trung Quốc, một trong những điều kiện của họ là Việt Nam phải sử dụng nhà thầu của họ.
Tờ
báo Đất Việt cho biết: “Ban đầu phía Việt Nam tưởng có lợi khi được vay
với lãi suất 4%, dù không thấp nhưng vẫn rẻ hơn so với vay thương mại,
tuy nhiên nó lại đi kèm với điều kiện phải sử dụng nhà thầu Trung Quốc,
dùng máy móc, thiết bị thay thế của Trung Quốc...
Đó
là những ràng buộc khiến bên đi vay "sập bẫy" và khi ấy công cụ tài
chính của Trung Quốc đã vượt khỏi mục tiêu kinh tế đơn thuần. Đằng sau
đó là vấn đề chính trị, nền móng của sự phát triển. Quan hệ giữa hai bên
cũng không phải là hai đối tác bình thường, sòng phẳng và bình đẳng
trong nền kinh tế thị trường, giữa người cho vay và bên đi vay nữa mà nó
đã mang tính chất giữa hai chính phủ, hai quốc gia.”[5]
4 Dự án mở rộng nhà máy Gang thép Thài Nguyên giai đoạn 2
Thông
tin về dự án này trên báo Pháp luật TPHCM như sau: “dự án này được Thủ
tướng phê duyệt chủ trương đầu tư vào năm 2005; giao VNS tổ chức thẩm
định, xem xét phê duyệt; Công ty Gang thép Thái Nguyên (TISCO) là chủ
đầu tư.
Tổng
mức đầu tư (TMĐT) được HĐQT VNS phê duyệt là 3.843 tỉ đồng, gồm hai gói
thầu chính: (1) Gói thầu mỏ sắt Tiến Bộ đã hoàn thành đưa vào sử dụng
với giá trị thanh toán là 224 tỉ đồng; (2) Gói thầu EPC dây chuyền công
nghệ luyện kim (143 triệu USD, sau là 160,9 triệu USD) đấu thầu rộng
rãi, Tập đoàn xây lắp luyện kim Trung Quốc (MCC) trúng thầu với giá
160,9 triệu USD.
Sau
ký hợp đồng, MCC đã được tạm ứng 35,6 triệu USD; tiếp đó TISCO và MCC
ký 10 phụ lục điều chỉnh nhiều nội dung quan trọng của hợp đồng EPC đã
ký.
Ngày
15-5-2013, chủ tịch HĐQT TISCO ký quyết định phê duyệt điều chỉnh tổng
mức đầu tư dự án là hơn 8.100 tỉ đồng (tăng 4.200 tỉ đồng), thời gian
thực hiện đến hết năm 2014 đi vào hoạt động. Thực tế, gói thầu EPC đã
tạm dừng thi công từ năm 2013 đến nay, các hạng mục đều chưa hoàn thành.
TISCO
đã thanh toán thay MCC tiền thuế là 11,6 triệu USD, thanh toán chi phí
xếp dỡ, bảo quản thiết bị là 4,737 tỉ đồng, vượt giá trị hợp đồng, trong
khi MCC chưa chuyển đủ thiết bị, cung cấp nhiều máy móc thiết bị sai
khác về xuất xứ, thông số kỹ thuật, không phù hợp với quy chuẩn Việt Nam
với giá trị xác định bước đầu là 38,8 triệu USD (42 xe ô tô là 1,033
triệu USD, năm đầu máy toa xe là 5,4 triệu USD…).”[6]
Sai
phạm tại dự án này cũng liên quan tới nhà thầu Trung Quốc, đã khiến ông
Hoàng Trung Hải - đương kim Bí thư thành uỷ Hà Nội, Cựu phó thủ tướng
đã bị chịu án kỷ luật.
Một
báo cáo của Bộ kế hoạch đầu tư Việt Nam năm 2018 cho biết: “trong số 12
đại dự án thua lỗ nghìn tỷ của Bộ Công thương, có đến 4 dự án là sử
dụng vốn vay từ Trung Quốc. Trong đó, nhà máy Đạm Ninh Bình có tổng vốn
đầu tư 6.000 tỷ, bị đội vốn lên tới 10.000 tỷ đồng; nhà máy Đạm Hà Bắc
đội vốn lên hơn 10.000 tỷ đồng; dự án mở rộng giai đoạn 2 Gang thép Thái
Nguyên bị đội vốn từ hơn 3.800 tỷ đồng ban đầu lên hơn 8.100 tỷ đồng;
dự án khai thác mỏ sắt Quý Xa và Nhà máy Gang thép Lào Cai bị đội vốn
gấp đôi từ 175 triệu USD lên hơn 335 triệu USD.”[7]
Các
khoản vay từ Trung Quốc “lãi suất cao hơn gấp rưỡi hoặc gấp 2 lần so
với các thị trường khác; điều kiện vay kém ưu đãi; yêu cầu chỉ định thầu
cho các công ty Trung Quốc; các dự án cho nhà thầu Trung Quốc thực hiện
thường xuyên bị chậm tiến độ, đội vốn…”[8]
Kết luận
Qua
khảo sát 4 trường hợp mà báo chí Việt Nam nêu gần đây đã cho thấy, các
cảnh báo từ phía các nhà nghiên cứu và chính khách Hoa Kỳ về “chính sách
ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc là hoàn toàn có cơ sở thực tế. Tất cả
các dự án sai phạm lớn của Việt Nam mà bài này đã nêu đều có bóng dáng
của Trung Quốc với những vấn đề như hợp đồng không rõ ràng, lãi suất
cao, các điều kiện kèm theo như sử dụng nguyên liệu và bên thi công từ
Trung Quốc…Tất cả những yếu tố này được Trung Quốc triển khai trong bối
cảnh chính quyền thiếu minh bạch, công khai và không loại trừ việc các
bên ký kết các hợp đồng như vậy có bóng dáng của tham nhũng.
Những
lo ngại về việc chính quyền Việt Nam nhượng bộ hoặc “vướng vào” tham
nhũng với phía Trung Quốc, từ đó sẽ dẫn đến những nhượng bộ về chủ quyền
như trường hợp Srilanka, Pakistant là hoàn toàn có lý do. Chính vì vậy,
nếu chính quyền Việt Nam thực tâm muốn vượt qua “bẫy nợ” này thì chỉ có
công khai, minh bạch các thông tin, tôn trọng sự phản biện từ các
chuyên gia mới có thể thực hiện được.
Trần Thảo Vy
-------------------
[1] U.S. Department of Defense. Summary of the 2018 National Defense Strategy of The United States of America, 19 Jan. 2018.
[2] https://www.belfercenter.org/sites/default/files/files/publication/Debtbook%20Diplomacy%20PDF.pdf
[3] Tillerson, Rex W. “U.S.-Africa Relations: A New Framework.” 6 March 2018, George Mason University, Fairfax, VA.
[5] https://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/dam-ninh-binh-nang-no-trung-quoc-sap-bay-the-nao-3317025/
[7] https://trithucvn.net/kinh-te/1-3-so-du-an-thua-lo-nganh-cong-thuong-co-von-vay-tu-trung-quoc.html
[8] https://trithucvn.net/kinh-te/1-3-so-du-an-thua-lo-nganh-cong-thuong-co-von-vay-tu-trung-quoc.html
(RFA)
Không có nhận xét nào