Vào năm 2010, nhân dịp kỷ niêm 70 năm ngày mất cụ Phan Bội Châu và 100 năm ngày mất bác sĩ Asaba Sakitaro, những người Nhật hảo tâm đã tặng tấm bia kỷ niệm quan hệ giao lưu Việt Nhật từ phong trào Đông Du đặt trong khu vườn trước mộ cụ Phan Bội Châu.
Dự kiến chiều 4/3, Nhật hoàng và Hoàng hậu sẽ đến tham quan khu lưu niệm Phan Bội Châu ở Huế nhân chuyến thăm Việt Nam.
+ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG TẠI NHẬT :
Trong khi tại VN xuân về tết đến,vạn vật cỏ cây xanh tốt khoe hương, thì nước Nhật đang lúc đông sang, trời rét căm căm , buốt cóng dưới nhiệt độ từ 0 độ C tới ố 50 độ C, nên tuyết gần như nhuộm trắng đất trời, vùng Hokkaido, Nigata.ở Bắc đảo,.tuyết dày cả thước, cho tới cuối tháng hai âm lịch vẫn chưa tan hẳn. Từ khi Minh Trị Thiên Hoàng canh tân đất nước nhưng Nhật vẫn giữ nguyên tập quán cũ, cả nước hầu hết đều ăn tết theo âm lịch và ngày Nguyên Ðán mùng một tháng giêng, được gọi là ngày Gantan. Lúc này tiết trời vô cùng lạnh lẻo, chính người bản địa còn chịu không nổi, thì thử hỏi người VN quen sống trong khí hậu miền nhiệt đới, sẽ khổ sở đến bực nào ? Căn cứ vào những trang nhật ký ghi trong ‘ Tự Phán ‘ của Phan Bội Châu, cho biết vào cuối năm Mậu Thân 1908, đời vua Thành Thái, phong trào Ðông Du nở rộ hơn bao giờ hết. Trong thời gian này, có hơn 400 nam nữ thanh niên VN khắp ba kỳ, xuất dương theo Phan Bội Châu, học tại Ðồng Văn thư viện và Trấn Võ học hiệu trên đất Nhật. Giữa lúc hy vọng tràn trề, thì thực dân Pháp đem quyền lợi tại thuộc địa Ðông Dương, chia xẻ với quân phiệt Nhật Bổn, để yêu cầu chính phủ nước này, đuổi hết thanh niên nam nữ VN, đang theo Cường Ðể và Phan Bội Châu trong phong trào Ðông Du. Thế rồi lệnh trục xuất đã được ban hành, tất cả học sinh người Việt phải rời Nhật trong vòng hai tuần lễ. Riêng Phan Bội Châu được gia hạn thêm một tuần lễ. Trong suốt thời này, vì là người đứng đầu, nên ông phải có trách niệm trả nợ cho mọi người, từ tiền ăn uống tới chi phí học hành, ngụ trọ. Theo tài liệu ghi lại, Sào Nam lúc đó không có tiền bạc gì cả. Ðây cũng là thực trạng chung của hầu hết những người Quốc Gia dấn thân hy sinh cưú nước, không giống như Việt Cộng từ đầu tới cuối đều được đệ tam cọng sản quốc tế và khối xã hội chủ nghĩa cưu mang yểm trợ tối đa từ tiền bạc cho tới mọi thứ trên đời. Nhưng người vì nước luôn có người tốt phù trợ, nên Phan Bội Châu đã được nhiều nhà quí tộc Phù Tang như Văn bộ đại thân kiêm Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị và phú gia Thiển Vũ Tá Hỷ Thái Lan, giúp tiền mua vé tàu thủy cho các du sinh VN từ Nhật về nước hay sang Trung Hoa Xiêm La. Ngoài ra còn giúp thêm 2700 dồng , để thanh toán hết các chi phí nợ nần.
Mọi việc giải quyết xong xuôi thì thời gian cũng vừa đúng chiều ba mươi Tết Nguyên Ðán nhưng tất cả người thân bao lâu cùng bôn ba nơi đất người, nay đã trở về cố quốc, chỉ còn lại có một mình Phan Bội Châu đón xuân trong cảnh vắng ngắt lạnh lùng chốn quê người, đâu đâu cũng chỉ thấy có tuyết lạnh mà thôi, vì các cửa hiệu hầu như đều đóng cửa nghĩ tết.
Tết ! Tết Nhật Bản rồi. Xưa nay nước Nhật vui xuân cũng giống như người Việt, nhất là ở thôn quê và các vùng ven đô thị. Nói chung. chỉ có người Nhật theo đạo Thiên Chúa mới ăn mừng lễ giáng sinh và đón tết theo dương lịch nhưng không tổ chức gì, ngoài việc tụ tập trước Hoàng Cung, để chúc tết Nhật Hoàng và Hoàng gia mà thôi. Theo Phan Bội Châu ghi lại, thì Tết Nhật chỉ vỏn vẹn có nửa ngày. Tuy vậy nước này vẫn theo đúng các tập tục của Á Ðông, duy trì các tục lì xì và lễ tết cho thầy cô giáo và những thượng cấp. Tại Nhật ngày tết cũng có trồng cây nêu gọi là kadomatsu, thường được bày bán trên hè phố vào khoảng hạ tuần tháng mười hai. Thật ra kadomatsu chỉ là ba cây tre tươi cắt chéo, cây giữa cao hơn, có thêm vài cành thông và được quấn lại bằng rơm. Nhiều nhà khi mua về, còn treo thêm các mảnh giấy màu trắng cắt xoắn, gọi là shimenawa, cắm ở giữa cửa chánh để trừ tà. Bên trong cũng có bàn thờ gia tiên nhưng nhỏ và đặt ở một góc nhà, chứ không để ở chính diện như các gia đình người Việt. Cũng có bánh dầy (omochi), hoa quả và đặc biệt có một đỉa bầy con tôm giả với rong biển, mà người Nhật nói là để tượng trưng cho tuổi thọ.
Tết Nhật cũng có lễ đón giao thừa nhưng khác với người Việt, vì không cúng kiếng đón ông bà ở nhà, mà kéo nhau tới lễ bái tại các Jinra (Thần xã), tức là các ngôi đền của Thần đạo (Shinto) mà làng nào cũng có . Ngoài ra người Nhật cũng tới lễ cúng tại các Otera (Chùa ) thờ Phật và các vị thần linh và bỏ tiền vào các thùng công đức (phước sương). Ngày tết đặc biệt nam cũng như nữ ở thôn quê, hầu như mặc kimono và mang đôi geta (guốc gỗ). Ðiểm đặc biệt là người Nhật không đốt pháo vào ngày tết vì mùa pháo nhằm vào tháng tám hằng năm. Do thời tiết quá lạnh lẻo, nên phần lớn người Nhật lợi dụng dịp tết để nghĩ ngơi, thăm viếng mộ phần các người thân trong gia đình hay tụ họp quanh lò sưởi để uống Saké. Ðể thay tiếng pháo, là các bài hát ca tụng tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật như bài Ðại Hòa Hồn, được cất vang lên khắp các ngỏ ngách, khu phố. Rồi còn có chiếu phim ở các nơi công công. Tết quê người thật buồn, nên cụ Phan chỉ còn biết giam mình trong bốn bức tường lạnh, hiu hắt nhìn tuyết rơi trắng xóa bên ngoài, qua khung cửa sổ, để gậm nhấm nổi nhớ nhà, thương nước và xót cho thân phận nhược tiểu VN.
Truớc khi rời nước Nhật, Phan Bội Châu được Khuyển Dưỡng Nghị và Bá Nguyên Văn Thái Lan dặn dò nên trở lại, sau khi tình hình bớt căng thẳng và khuyên nên hết sức bí mật để tránh tai mắt của mật thám Pháp. Do đó vào năm Duy Tân thứ 5, Sào Nam lại đáp tàu thủy từ Trung Hoa sang thành phố hải cảng Trường Kỳ, cũng vào đúng ngày 30 tháng chạp. Do sợ mật thám Pháp theo dõi gây khó khăm cho chính phủ Nhật, nên Phan Bội Châu không dám dùng xe lửa hay tàu thủy để tới Tokyo, mà chỉ đi bộ. Ðường xa lại ngày Tết, nên Sào Nam vô cùng khổ sở. Dọc đường không dám mở miệng với ai, chỉ khi nào gặp được nhà hay người Hoa, thì mới tự xưng mình là Hoa kiều từ Quảng Ðông qua Nhật làm ăn nhưng bị thất nghiệp, nên phải hành khuất. Tóm lại như đã ghi trong Phan Bội Châu niên biểu, thì ông đã đi ăn xin mười ngày, khi đi bộ từ Trường Kỳ tới Ðông Kinh, lần thú hai. Ðọc nhật ký của người chiến sĩ cách mạng quốc gia, sao mà thảm thiết quá, đâu có khác gì kiếp đời của những quân, công, cán, cảnh VNCH.. sau năm 1975 mãn tù, từ trại giam về quê nhà, cũng phải hành khuất thiên hạ để xin cơm và phương tiện, vì có mấy ai còn tiền bạc, sau khi đã bị VC trấn lột hết lúc bước vào cổng nhà tù.
+ TẾT TRÊN ÐẤT TÀU :
Những ngày hoạt động trên đất Tàu, Phan Bội Châu gần như bôn ba khắp mọi nơi, từ Bắc Kinh, Thượng Hải xuống tới Hoa Nam, nhát là các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam, sát biên giới Hoa-Xiêm-Lào-Việt. Tết Tàu và VN từ ngàn xưa do ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử, nên gần giống nhau qua các phong tục , nhắm vào phần nghi lễ ‘ Tống cựu ‘ , bắt đầu với lễ cúng tiễn Táo quân về trời vào đêm 23 tháng chạp và trở lại dương thế , trong buổi chiều cuối năm. Cùng thời gian này, mọi người dù ở thôn quê hay thành thị, đều lo dự trữ nước dùng cho đầy đủ trong mấy ngày Tết. Sau đó làm lễ Phong Tỉnh, cúng và đậy kín miệng giếng, cho tới mồng hai năm tới, mới mở giếng bằng lể khai tỉnh, cúng với bánh kẹo nhang đèn. Rồi thì lo quét dọn nhà cửa trong ngoài vào ngày 30 tháng chạp, cho tới hết ngày mùng ba năm mới .Tập tục kiêng cữ này được bắt nguồn từ câu chuyện Âu Minh đi buôn bán ở phương xa, được thần nhân tặng cho một cô hầu xinh đẹp tên Như Nguyệt, nên từ đó làm ăn rất phát đạt. Năm kia vào ngày Tết, trong lúc quá nóng giận, nên đánh cô ta làm nàng sợ hãi trốn vào đống rác và biến mất. Từ đó Âu Minh làm ăn thất bại và sạt nghiệp, nên mới phát sinh ra tập tục ‘ tảo địa ‘, kiêng cữ quét rác trong ba ngày Tết, để tránh mất mát những sự may mắn trong nhà. Ngoài ra vào ngày cuối năm, hầu như nhà nào cũng cúng rước ông bà hay tổ chức tiệc đoàn tụ cuối năm trong gia đình, để con cái mừng tuổi ông bà cha mẹ và nhận tiền lì xì mừng năm mới. Sau lễ cúng giao thừa là năm mới với nhiều nghi lễ Nghênh Tân như cúng ông bà cha mẹ vào ba ngày tết, thăm viếng, lễ chùa, xin xăm hái lộc..
Cũng trong nghi thức tống cựu, còn có lễ phong môn nhà cửa bằng hai miếng giấy đỏ dán chéo vào nhau, trên có viết ‘ khai môn đại cát ‘, cửa được mở vào lúc giao thừa. Tóm lại Tết Tàu lẫn Tết Ta, đều là những ngày trọng đại, vui vẻ và náo nhiệt nhất trong năm. Với truyền thống các dân tộc Á Ðông nói chung, thì Xuân tiết được bắt nguồn từ lễ Lạp Tế vào tháng chạp, từ lúc xã hội còn nguyên thủy. Rồi theo thời gian , lễ này biến thành phong tục khánh chúc năm mới, trong đó có các nghi lễ cúng tế thần linh và tổ tiên trong gia đình. Theo Phan Bội Châu đã ghi lại, thì tết của người Trung Hoa vào thời đó, cũng không khác bây giờ là mấy, phần lớn là niềm vui trong gia đình., nhất là tại miền quê. Nói chung đối với người Tàu hay người Việt, thì ngày Tết là dịp duy nhất trong năm. để mọi người quay về nhà đoàn tụ với người thân. Cho nên những ngày thiêng liêng này, nếu những ai còn lạc lõng bơ vơ nơi xú lạ, hầu hết là những kẻ bất hạnh , nên người sắt đá như Phan Bội Châu, trước cảnh cô đơn nơi xứ người, cũng cảm thấy hiu hắt buồn rầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, nhất là khắp các nơi chốn ở trên đất Trung Hoa, hầu như chốn nào tập quán cũng ít nhiều hao hao giống quê nhà. Ðây là sự thật vì cả vùng rộng lớn, từ Chiết Giang, cái nôi của nền văn hóa Ngô Việt, xuống tới Phúc Kiến (Mân Việt), Lưỡng Quảng và Vân Nam ( Âu Việt).. cùng với Việt Nam (Lạc Việt), đều có nguồn gốc phát xuất từ Bách Việt, với những phong tục tập quán, vẫn còn được duy trì và tồn tại tới ngày nay. Ðọc ký sự của người chiến sỹ quốc gia năm nào, càng thêm chua chát đắng cay, qua những lời viết khôi hài cười ra nước mắt, khi ông cho biết trong ba ngày Tết, cả nước Tàu bỗng dưng hiền khô và dễ thương, nên ông đi đâu cũng được thiên hạ ân cần mời cơm ăn, rượu uống, làm cho người lạc xứ phải say mèm, phần vì rượu nhưng trên hết vẫn là say cái cảnh đầm ấm hạnh phúc nới đất người.
+ TẾT THA PHƯƠNG Ờ XIÊM LA :
Thời Pháp thuộc, số lương của Việt kiều sinh sống tại Thái Lan không ai biết được, kể cả chính quyền Xiêm La và thực dân Tây ở Ðông dương, ngoại trừ những tổ chức cách mạng bản địa. Sỏ dĩ có vấn đề đó là vì hầu hết Việt kiều tại Thái Lan đều tham gia vào các lực lượng chính trị, do đó không ai muốn cho Tòa Lãnh sự Pháp tại Xiêm La, biết rõ lý lịch để mang phiền lụy hay bị bắt bớ . Phần khác đa số người Việt tại Thái do mặc cảm bị quốc nhục khi tới đây, qua những lời hạ bạc như ‘ Xào Mương Khữu ‘ tức ‘ Dân Vong Quốc ‘ hay ‘ Keo, Duồn, Khẩu, Nậm ‘ tức ‘ Thằng An-Nam kiếm ăn ở nhờ’. Cũng vì vậy mà ai cũng muốn học tiếng Thái và cố gắng làm ăn cho có tiền, để mau chóng được nhập tịch Thái. Có vậy họ mới thoát được pháp lý , vì không phải là người VN đang bị thực dân thống trị tại Ðông Dương. Từ sau năm 1954, VNCH có liên hệ ngoại giao với Thái Lan, nên phần nào tổng kết được một cách đại khái số lương Việt kiều và những địa phương có đông người Việt cư ngụ trên đất Thái như : Na Khon, Nong Khai, U Bon, Mar Keng, Ou Then, Xieng May..
Căn cứ vào báo chí của Người Việt xuất bản tại Thái, thì Người Việt đến đây qua bốn đợt, bắt đầu từ thời Minh Mạng (1820-1840) cấm đạo Thiên Chúa, thời kỳ thứ hai (1885-1897) xảy ra phong trào Cần Vương đánh Pháp, thời kỳ thứ ba , chiến tranh biên giới Lào-Thái vào năm 1939 và thời kỳ cuối cùng (1946-1954) , chiến tranh Ðông Dương. Thái Lan hiện có 10 tỉnh, trong đó hai tỉnh lớn nhất là Korat (Kho Rat) và Udon (Oudonne), chiếm tới 2/5 diện tích cả nước. Theo sử liệu, hai tỉnh này là lãnh thổ của Lào, nằm phía bên kia sông Cửu Long, đã bị Xiêm La dùng bạo lực cưởng chiếm. Hai tỉnh này có rất nhiều Việt kiều trú ngụ, tại các Phủ Na Khon, Houthène, Sakhon, Counfvapit, Nong Khai, Bang Hen, Khon Khen, Ta Bot, Loeui, Fanranat, Phanonte, Nakés, Mouk.. Ngoài ra Việt kiều còn ở rải rác tại các tỉnh Parnamfo, Fichit và Chiengmay thuộc miền tây bắc Thái. Riêng thủ đô Vọng Các có it Việt kiều sinh sống, mặc dù đây là thương cảng, có bến tàu từ tứ xứ tới.
Thời đó để đối phó với các tổ chức chính trị của người Việt, từ VN và Trung Hoa sang đất Thái, nên thực dân Pháp đả đặt Tòa Lãnh sự và một mạng lưới công an mật thám như mạng nhện, để giăng bắt những nhà cách mạng tới đây hoạt động. Do đó Vọng Các cũng là nấm mộ đã chôn không biết bao nhiêu nhà ái quốc chí sĩ VN. Chính Tăng Bạt Hổ, Mai Lão Bạng, Lưu Khai Hồng, Ðặng Thái Thuyên, Lê Ðại, Ngô Chính Quốc, Ðặng Tử Mẫn, Bùi Chính Lộ.. những chiến sĩ của phong trào Ðông Du, Quang Phục và Thanh Niên Ðồng Minh hội.. đều rời vào cạm bẫy của thực dân Pháp tại Vọng Các. Riêng Phan Bội Châu vào năm 1911, đã may mắn trong gang tấc thoát được mật thám Pháp cũng ở nơi này. Do trên trong ‘ Tự Phán’ Phan Bội Châu đã viết rằng Vọng Các là một hang hùm, ổ rắn độc của chúng ta.
Ðặng Thúc Hứa tự Ngọ Sanh, người Nghệ An, là đồng chí của Cường Ðể, Nguyễn Thượng Huyền, Phan Bội Châu trong phong trào Ðông Du, Duy Tân và VN Quang Phục Hội, từ tới Nhật theo học Trường Khổ Công Học Hiệu tại Ðông Kinh. Năm 1908, sau khi bị chính quyền sở tại trục xuất, Ðặng Thúc Hứa được lệnh của tổ chức tới Xiêm La, để lãnh đạo các tổ chức cách mạng VN tại đây. Trước khi phong trào Ðông Du từ Nhật sang Xiêm La, Việt kiều tại Thái dù chưa có một tổ chức cách mạng nào, dù đa số đều thuộc các đội nghĩa quân Cần vương miền Nam của Trương Công Ðinh, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Thanh Tòng.. hay ở miền Trung của các lãnh tụ Trần Hải, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Lê Trung Ðình, Nguyễn Hiệu, Mai Xuân Thưởng.. sau khi các căn cứ bị Pháp phá vở, đã theo đường biển, đường núi, xuyên qua Hạ Lào, Cao Mên, chạy sang đất Thái , để xây dựng các cơ sở cách mạng tại Oubon, Xỉ Xã Kệch.. nhờ vua Thái là Fraonchant 6 che chở., từng nhiều lần vượt sông Cửu Long , tấn công các đồn Pháp tại Paks1, Attopeu.. ở Hạ Lào.
Từ năm 1908 về sau, qua sự lãnh đạo của các chí sĩ cách mạng trong phong trào Ðông Du, cơ sở cách mạng của Việt kiều tại Thái Lan đã phát triển rất nhiều như Bạn May, Bạn Vatapas, Bạn Banboche, thuộc tỉnh Lakhon. Ở phủ Oudonne có Bạn Nôông Bùa, Bạn Nôông Ổn. Khi Phan Bội Châu tới Xiêm, đã lập Bạn Ðông Thầm tại Phi Chịt, với các nam nữ chiến sĩ can trường , hùng liệt, được người địa phương gọi là ‘ Sứa Mường Thày ‘ (Cọp ở Thái) . Ðó là Võ Trọng Ðài, Lê Xuân Ngân, Nguyễn Trung Chánh, Nguyễn Tài, Nguyễn Ðức Thảo, Trạch Phong.. Tóm lại sau ngày phong trào Ðông Du tại Nhật Bổn bị tan vở, một nửa cỡ sở sang Tàu, phần còn lại tới Xiêm tiếp tục hoạt động cách mạng, với các lãnh tụ Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Ðặng Tử Kính, Ðinh Doãn Tế, Ðặng Thúc Hứa, Võ Trọng Ðài, Nguyễn Thức Ðường, Mai Lão Bạng. Năm Tân hợi 1911 cuộc cách mạng lật đổ nhà Mãn Thanh ở Trung Hoa thành công như một luồng gió mới thổi vào các chiến sĩ cách mạng VN đang bôn ba đấu tranh chống thực dân Pháp tại hải ngoại. Từ đó tổ chức VN Quang Phục Hội ra đời ở Tàu và trong các địa phương tại Thái Lan có Việt kiều cư ngụ. Vì vậy Phan Sào Nam lại phải rời đất Xiêm sang Tàu và giao các cơ sở cách mạng ở đây cho Ðặng Tử Kính, Võ Trọng Ðài và Ðặng Thúc Hứa .
Dưới sự lãnh đạo của VN Quang Phục Hội, các tổ chức chính trị của Việt kiều tại Thái Lan đã hoạt động rất tích cực , từ việc ấn hành các tài liệu cứu nước như Ái quốc ca, Ái chủng ca, Ái đaòn ca, Hoán tình quốc dân, Quang phục quân phương lược .. Song song, VN Quang phục hội còn cử Tùng Nham Nguyễn Văn Ngôn, từ Xiêm về Việt Bắc , giúp Hoàng Hoa Thám đẩy mạnh cuộc chống Pháp tại căn cứ Yên Thế, Phồn Xương, Thái Nguyên. Lại cử Sư Ông Rau về Cao Mên và Nam Kỳ lập các tổ chức VN Quang phục cách mạng.
Thế chiến 2 tại Âu Châu, Pháp bị Ðức đánh bại phải đầu hàng một cách nhục nhã. Dựa vào thời cuộc quốc tế, Phan Bội Châu chuyển hướng đấu tranh bằng võ trang khắp nơi trong nước, như vụ Hà Thành đầu độc,cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Trịnh văn Cấn-Lương Ngọc Quyến, ném bom Hà Nội-Thái Bình, cuộc khởi nghĩa của Vua Duy Tân-Thái Phiên-Trần Cao Vân ở Huế.. Ðồng lúc từ các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, các nhà cáh mạng VN Quang Phục Hội gồm Nguyễn Hải Thần, Hoàng Trọng Mậu và Nguyễn Thúc Ðường, chỉ huy ba đạo quân Việt Quốc, kéo về tấn công các đồn Pháp ở biên giới Hoa-Việt. Trong nội địa nước Thái, Việt kiều trong tổ chức Quang Phục Hội, qua sự giúp đỡ của Tòa Lãnh sự Ðức ở Vọng Các, nên cũng tổ chức được 3 đạo Nghĩa quân, dưới quyền chỉ huy của Ðinh Doãn Tế, Ng6 Quang.. vượt sông Cửu Long, tấn công các đồn binh của thực dân Pháp tại biên giới Thái-Lào ở Hin Bun, Savannakhek, Paksé..
Ngày 11 tháng 5 năm Ất Sửu nhằm tháng 7-1925, Phan Bội Châu từ Hàng Châu lên Thượng Hải, định đáp tàu thủy về Quảng Ðông, để kịp dự cuộc tế lễ , kỷ niệm cai chết của liệt sĩ Phạm Hồng Thái , do các đoàn thể cách mạng VN hải ngoại tổ chức. Nhưng không ngờ khi tới ga Bắc Tạm, Phan Bội Châu bị Việt gian chỉ điểm cho mật thám Pháp bắt cóc, chở bằng tàu hải quân về Hà Nội để tử hình. Tuy nhiên giặc Pháp đâu ngờ rằng, sau tiếng bom của người chiến sĩ Pham Hồng Thái nổ tại Sa Ðiện, đã làm người Việt trong và ngoài nước bừng bừng nổi dậy. Vì vậy vừa nhận được tin Lãnh tụ Phan Bội Châu sắp bị thực dân đem lên mây chém. Thế là đồng bào từ nam va bắc, Sài Gòn,Hà Nội, Huế hay bất cứ nơi nào, sinh viên học sinh, nông dân thợ thuyền, người bình dân cho tới hàng tr1 thức, lớp lớp ào ạt đình công bãi thị, biểu tình đòi Pháp phải ân xá ngay cho vị anh hùng dân tộc VN. Tại Thái Lan, Việt kiều qua sự lãnh đạo của các nhà cách mạng VN Quang Phục Hội như Ðặng Thúc Hứa, Võ Trọng Ðài,Cố Khôn, Thạch Phong, Lưu Khai Hồng.. bất kể thuộc thành phần nào, công giáo hay đạo Phật, khắp nơi trên đất Thái, từ Oubon, Vọng Các đến các xứ đạo Tha Hệ, Noóng Xến, đã tranh đấu bằng đủ mọi hình thức như biểu tình trước sứ quán Pháp ở Bangkok,đăng báo bằng Thái và Anh ngữ cũng như nhờ các Cha xứ , vận động Tòa Thánh La Mã, bắt Pháp phải ân xá cho Phan Bội Châu. Do tất cả các lý do trên, khiến giặc Pháp không dám giết Phan Sào Nam, chứ thật ra chúng chẳng nhân đạo gì, nhất là đối với người lãnh tụ phong trào Ðông Du kiệt hiệt và có uy tín nhất với người Việt và hải ngoại lúc đó, cũng như mãi mãi sau này.
Cũng từ đó về sau, dù Phan Bội Châu làm thân cá chậu chim lồng trong tử địa tại Bến Ngự ố Huế nhưng tiếng tăm của ông, cộng với tiếng bom Sa Ðiện và dư âm của hàng triệu người đã tham dự ngày quốc táng lãnh tụ phong trào Duy Tân là Phan Chu Trinh, đã mở đường cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, của nhiều đảng phái chính trị như VN Quốc Dân Ðảng, Tân Việt Cách Mạng Ðảng, VN Cách Mạng Ðồng Minh Hội (Việt Minh), Hội kín NguyễnAn Ninh.. nam nữ các thế hệ VN, nối tiếp con đường cứu nước dang dở của các sĩ phu Văn Thân, Cần Vương, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Cường Ðể, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng .. và nhát là Phan Bội Châu.. cho tới khi cả nước, đồng chiến đấu chung trong Mặt Trận Việt Minh, đánh đuổi được giặc Pháp, ra khỏi bờ cõi Hồng-Lạc vào tháng 7-1954.
Theo những trang ký sự còn ghi , cho thấy Phan Bội Châu đã sống lưu vong nhiều năm trên đất Thái. Theo ông, Tết ở Xiêm chỉ chú trọng tới lễ Phật là trên hết, tuy nhiên đối với người VN vẫn có nhiều khác biệt, dù cả hai đều tới chùa cúng lạy với hương hoa trà quả và pháo nổ vang trời. Nhưng đó là đối với Tết Xuân của người thiên hạ, với Phan Bội Châu lúc đó đang sống với các đồng chí tại đồn điền Bạn Thầm. Ðây là một miền đất hoang vu chừng 30 mẫu, được chính phủ Thái cấp cho các nhà cách mạng lưu vong VN như Ðặng Tử Kính, Ðặng Ngọ Sinh.. tất cả chừng 40 người. Lúc Phan Bội từ Nhật tới đây, cũng đã cùng anh em dùng hai bàn tay trắng, khái phá đất hoang để kiếm gạo nuôi sống hàng ngày. Lúc đó ai cũng lao động, suốt ngày, còn cụ Phan vì không quen chuyện cày cuốc nên cũng phải vào núi để hái trà hoang, đem về nấu cho anh em uống . Làm việc suốt năm chỉ được nghỉ có sáng mồng một Tết Nguyên Ðán nhưng không phải để ăn uống món ngon vật lạ, mà là ngồi quây quần bên nhau, để hướng về quê hương nơi cõi muôn trùng, rồi nhớ thương qua những lời ca tiếng hát Ái quốc ca, Ái chủng ca, Ái chủng ca.. Lời ca hòa lẫn tiếng vỗ tay đánh nhịp thay tiếng pháo, giữa khung trời tự do mượn tạm nơi đất khách nhưng đối với mọi người, thì đó là niềm hạnh phúc không bao giờ có tại quê nhà đang quằn quại hận hờn dưới gót giầy đô hộ của thực dân Pháp.
Cuói chạp gần sắp Tết Tân Hợi (1911), đang lúc mọi người hờ hững đợi một thêm một xuân tha hương trên đất người, thì cuộc cách mạng lật đổ nhà Mãn Thanh trên đất Tàu đã thành công . Do đó, các lãnh tụ Trung Hoa QuốcDân Ðảng như Tôn Văn, Hoàng Khắc Cường.. muốn giúp đỡ các chính khách VN , nhất là Phan Bội Châu. Nhưng từ Xiêm muốn qua Tàu lúc đó, tiềm lệ phí không phải là ít, khi mặt thật tài chánh tại đồn điền Bạn Thầm , thu góp chung chỉ đếm được 30 bạc. Số tiền này theo thời giá lúc đó, cũng chỉ đủ để Phan Bội Châu và Ðặng Tử Mẫn mua vé xe lửa tới Vọng Các mà thôi. Cuối cùng hai nhà cách mạng VN đã phải dùng khổ nhục kế “ Hành Khuất “ , để còn số tiền 30 bạc, mua hai vé tàu thủy tới Hương Cảng. Thời gian rời Bạn Thầm đúng 29 Tết, Phan Bội Châu tói Quảng Ðong vào những ngày đầu tháng giêng năm Quý Sửu (1912) để kịp thành lập VN Quang Phục Hội, trên đất Trung Hoa.
Hơn 100 năm trước, hàng hàng lớp lớp những người trẻ tuổi , mà Phan Bội Châu ví như một con chim đầu đàn, lớp chết lớp kế tiếp nhau vào tù ăn tết ở trong tù hay bị giam lỏng mãn đời trong tử địa. Ngày nay tên tuổi Phan Bội Châu được gắn liền với bao thế hệ thanh niên nam nữ Bình Thuận, qua ngôi trường trung học công lập tại thị xã Phan Thiết hơn nửa thế kỷ thăng trầm biển dâu trầm thống. Nhớ Phan Bội Châu cũng đâu bao giờ dám quên những anh hùng liệt sĩ yêu nước làm rạng danh sông núi Bình Thuận như Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Ưng Chiếm, Bùi Hành, Cao Hàng, Phan Chánh, Lê Công Chánh, T?ng Hưng Nho, Nguyễn Ðặng Giai.. Vũ Anh Khanh và trăm ngàn thanh niên thiếu nữ anh hào cận sử.
Sống cho dù có khoa bảng trí thức nơi xứ người nhưng dưới con mắt của địa phương, ta đâu có khác gì tên mọi Tây hay Mỹ ?. sao bằng vì nước mả hy sinh nhu Trần Van Bá, Hoàng Cơ Minh, Trần Thiện Khải.. hay sống trong tù giặc như Võ Ðại Tôn, Lý Tống, Nguyễn Thị Ngọc Hạnh hiện nay, hay vui những cái tết hành khuất như các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, vẫn danh thơm muôn thuở -/-
Những cái Tết tha phương của Phan Bội Châu tại hải ngoại khi Đông Du cứu nước ( phần 2) |
Dự kiến chiều 4/3, Nhật hoàng và Hoàng hậu sẽ đến tham quan khu lưu niệm Phan Bội Châu ở Huế nhân chuyến thăm Việt Nam.
+ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG TẠI NHẬT :
Trong khi tại VN xuân về tết đến,vạn vật cỏ cây xanh tốt khoe hương, thì nước Nhật đang lúc đông sang, trời rét căm căm , buốt cóng dưới nhiệt độ từ 0 độ C tới ố 50 độ C, nên tuyết gần như nhuộm trắng đất trời, vùng Hokkaido, Nigata.ở Bắc đảo,.tuyết dày cả thước, cho tới cuối tháng hai âm lịch vẫn chưa tan hẳn. Từ khi Minh Trị Thiên Hoàng canh tân đất nước nhưng Nhật vẫn giữ nguyên tập quán cũ, cả nước hầu hết đều ăn tết theo âm lịch và ngày Nguyên Ðán mùng một tháng giêng, được gọi là ngày Gantan. Lúc này tiết trời vô cùng lạnh lẻo, chính người bản địa còn chịu không nổi, thì thử hỏi người VN quen sống trong khí hậu miền nhiệt đới, sẽ khổ sở đến bực nào ? Căn cứ vào những trang nhật ký ghi trong ‘ Tự Phán ‘ của Phan Bội Châu, cho biết vào cuối năm Mậu Thân 1908, đời vua Thành Thái, phong trào Ðông Du nở rộ hơn bao giờ hết. Trong thời gian này, có hơn 400 nam nữ thanh niên VN khắp ba kỳ, xuất dương theo Phan Bội Châu, học tại Ðồng Văn thư viện và Trấn Võ học hiệu trên đất Nhật. Giữa lúc hy vọng tràn trề, thì thực dân Pháp đem quyền lợi tại thuộc địa Ðông Dương, chia xẻ với quân phiệt Nhật Bổn, để yêu cầu chính phủ nước này, đuổi hết thanh niên nam nữ VN, đang theo Cường Ðể và Phan Bội Châu trong phong trào Ðông Du. Thế rồi lệnh trục xuất đã được ban hành, tất cả học sinh người Việt phải rời Nhật trong vòng hai tuần lễ. Riêng Phan Bội Châu được gia hạn thêm một tuần lễ. Trong suốt thời này, vì là người đứng đầu, nên ông phải có trách niệm trả nợ cho mọi người, từ tiền ăn uống tới chi phí học hành, ngụ trọ. Theo tài liệu ghi lại, Sào Nam lúc đó không có tiền bạc gì cả. Ðây cũng là thực trạng chung của hầu hết những người Quốc Gia dấn thân hy sinh cưú nước, không giống như Việt Cộng từ đầu tới cuối đều được đệ tam cọng sản quốc tế và khối xã hội chủ nghĩa cưu mang yểm trợ tối đa từ tiền bạc cho tới mọi thứ trên đời. Nhưng người vì nước luôn có người tốt phù trợ, nên Phan Bội Châu đã được nhiều nhà quí tộc Phù Tang như Văn bộ đại thân kiêm Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị và phú gia Thiển Vũ Tá Hỷ Thái Lan, giúp tiền mua vé tàu thủy cho các du sinh VN từ Nhật về nước hay sang Trung Hoa Xiêm La. Ngoài ra còn giúp thêm 2700 dồng , để thanh toán hết các chi phí nợ nần.
Mọi việc giải quyết xong xuôi thì thời gian cũng vừa đúng chiều ba mươi Tết Nguyên Ðán nhưng tất cả người thân bao lâu cùng bôn ba nơi đất người, nay đã trở về cố quốc, chỉ còn lại có một mình Phan Bội Châu đón xuân trong cảnh vắng ngắt lạnh lùng chốn quê người, đâu đâu cũng chỉ thấy có tuyết lạnh mà thôi, vì các cửa hiệu hầu như đều đóng cửa nghĩ tết.
Tết ! Tết Nhật Bản rồi. Xưa nay nước Nhật vui xuân cũng giống như người Việt, nhất là ở thôn quê và các vùng ven đô thị. Nói chung. chỉ có người Nhật theo đạo Thiên Chúa mới ăn mừng lễ giáng sinh và đón tết theo dương lịch nhưng không tổ chức gì, ngoài việc tụ tập trước Hoàng Cung, để chúc tết Nhật Hoàng và Hoàng gia mà thôi. Theo Phan Bội Châu ghi lại, thì Tết Nhật chỉ vỏn vẹn có nửa ngày. Tuy vậy nước này vẫn theo đúng các tập tục của Á Ðông, duy trì các tục lì xì và lễ tết cho thầy cô giáo và những thượng cấp. Tại Nhật ngày tết cũng có trồng cây nêu gọi là kadomatsu, thường được bày bán trên hè phố vào khoảng hạ tuần tháng mười hai. Thật ra kadomatsu chỉ là ba cây tre tươi cắt chéo, cây giữa cao hơn, có thêm vài cành thông và được quấn lại bằng rơm. Nhiều nhà khi mua về, còn treo thêm các mảnh giấy màu trắng cắt xoắn, gọi là shimenawa, cắm ở giữa cửa chánh để trừ tà. Bên trong cũng có bàn thờ gia tiên nhưng nhỏ và đặt ở một góc nhà, chứ không để ở chính diện như các gia đình người Việt. Cũng có bánh dầy (omochi), hoa quả và đặc biệt có một đỉa bầy con tôm giả với rong biển, mà người Nhật nói là để tượng trưng cho tuổi thọ.
Tết Nhật cũng có lễ đón giao thừa nhưng khác với người Việt, vì không cúng kiếng đón ông bà ở nhà, mà kéo nhau tới lễ bái tại các Jinra (Thần xã), tức là các ngôi đền của Thần đạo (Shinto) mà làng nào cũng có . Ngoài ra người Nhật cũng tới lễ cúng tại các Otera (Chùa ) thờ Phật và các vị thần linh và bỏ tiền vào các thùng công đức (phước sương). Ngày tết đặc biệt nam cũng như nữ ở thôn quê, hầu như mặc kimono và mang đôi geta (guốc gỗ). Ðiểm đặc biệt là người Nhật không đốt pháo vào ngày tết vì mùa pháo nhằm vào tháng tám hằng năm. Do thời tiết quá lạnh lẻo, nên phần lớn người Nhật lợi dụng dịp tết để nghĩ ngơi, thăm viếng mộ phần các người thân trong gia đình hay tụ họp quanh lò sưởi để uống Saké. Ðể thay tiếng pháo, là các bài hát ca tụng tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật như bài Ðại Hòa Hồn, được cất vang lên khắp các ngỏ ngách, khu phố. Rồi còn có chiếu phim ở các nơi công công. Tết quê người thật buồn, nên cụ Phan chỉ còn biết giam mình trong bốn bức tường lạnh, hiu hắt nhìn tuyết rơi trắng xóa bên ngoài, qua khung cửa sổ, để gậm nhấm nổi nhớ nhà, thương nước và xót cho thân phận nhược tiểu VN.
Truớc khi rời nước Nhật, Phan Bội Châu được Khuyển Dưỡng Nghị và Bá Nguyên Văn Thái Lan dặn dò nên trở lại, sau khi tình hình bớt căng thẳng và khuyên nên hết sức bí mật để tránh tai mắt của mật thám Pháp. Do đó vào năm Duy Tân thứ 5, Sào Nam lại đáp tàu thủy từ Trung Hoa sang thành phố hải cảng Trường Kỳ, cũng vào đúng ngày 30 tháng chạp. Do sợ mật thám Pháp theo dõi gây khó khăm cho chính phủ Nhật, nên Phan Bội Châu không dám dùng xe lửa hay tàu thủy để tới Tokyo, mà chỉ đi bộ. Ðường xa lại ngày Tết, nên Sào Nam vô cùng khổ sở. Dọc đường không dám mở miệng với ai, chỉ khi nào gặp được nhà hay người Hoa, thì mới tự xưng mình là Hoa kiều từ Quảng Ðông qua Nhật làm ăn nhưng bị thất nghiệp, nên phải hành khuất. Tóm lại như đã ghi trong Phan Bội Châu niên biểu, thì ông đã đi ăn xin mười ngày, khi đi bộ từ Trường Kỳ tới Ðông Kinh, lần thú hai. Ðọc nhật ký của người chiến sĩ cách mạng quốc gia, sao mà thảm thiết quá, đâu có khác gì kiếp đời của những quân, công, cán, cảnh VNCH.. sau năm 1975 mãn tù, từ trại giam về quê nhà, cũng phải hành khuất thiên hạ để xin cơm và phương tiện, vì có mấy ai còn tiền bạc, sau khi đã bị VC trấn lột hết lúc bước vào cổng nhà tù.
+ TẾT TRÊN ÐẤT TÀU :
Những ngày hoạt động trên đất Tàu, Phan Bội Châu gần như bôn ba khắp mọi nơi, từ Bắc Kinh, Thượng Hải xuống tới Hoa Nam, nhát là các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam, sát biên giới Hoa-Xiêm-Lào-Việt. Tết Tàu và VN từ ngàn xưa do ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử, nên gần giống nhau qua các phong tục , nhắm vào phần nghi lễ ‘ Tống cựu ‘ , bắt đầu với lễ cúng tiễn Táo quân về trời vào đêm 23 tháng chạp và trở lại dương thế , trong buổi chiều cuối năm. Cùng thời gian này, mọi người dù ở thôn quê hay thành thị, đều lo dự trữ nước dùng cho đầy đủ trong mấy ngày Tết. Sau đó làm lễ Phong Tỉnh, cúng và đậy kín miệng giếng, cho tới mồng hai năm tới, mới mở giếng bằng lể khai tỉnh, cúng với bánh kẹo nhang đèn. Rồi thì lo quét dọn nhà cửa trong ngoài vào ngày 30 tháng chạp, cho tới hết ngày mùng ba năm mới .Tập tục kiêng cữ này được bắt nguồn từ câu chuyện Âu Minh đi buôn bán ở phương xa, được thần nhân tặng cho một cô hầu xinh đẹp tên Như Nguyệt, nên từ đó làm ăn rất phát đạt. Năm kia vào ngày Tết, trong lúc quá nóng giận, nên đánh cô ta làm nàng sợ hãi trốn vào đống rác và biến mất. Từ đó Âu Minh làm ăn thất bại và sạt nghiệp, nên mới phát sinh ra tập tục ‘ tảo địa ‘, kiêng cữ quét rác trong ba ngày Tết, để tránh mất mát những sự may mắn trong nhà. Ngoài ra vào ngày cuối năm, hầu như nhà nào cũng cúng rước ông bà hay tổ chức tiệc đoàn tụ cuối năm trong gia đình, để con cái mừng tuổi ông bà cha mẹ và nhận tiền lì xì mừng năm mới. Sau lễ cúng giao thừa là năm mới với nhiều nghi lễ Nghênh Tân như cúng ông bà cha mẹ vào ba ngày tết, thăm viếng, lễ chùa, xin xăm hái lộc..
Cũng trong nghi thức tống cựu, còn có lễ phong môn nhà cửa bằng hai miếng giấy đỏ dán chéo vào nhau, trên có viết ‘ khai môn đại cát ‘, cửa được mở vào lúc giao thừa. Tóm lại Tết Tàu lẫn Tết Ta, đều là những ngày trọng đại, vui vẻ và náo nhiệt nhất trong năm. Với truyền thống các dân tộc Á Ðông nói chung, thì Xuân tiết được bắt nguồn từ lễ Lạp Tế vào tháng chạp, từ lúc xã hội còn nguyên thủy. Rồi theo thời gian , lễ này biến thành phong tục khánh chúc năm mới, trong đó có các nghi lễ cúng tế thần linh và tổ tiên trong gia đình. Theo Phan Bội Châu đã ghi lại, thì tết của người Trung Hoa vào thời đó, cũng không khác bây giờ là mấy, phần lớn là niềm vui trong gia đình., nhất là tại miền quê. Nói chung đối với người Tàu hay người Việt, thì ngày Tết là dịp duy nhất trong năm. để mọi người quay về nhà đoàn tụ với người thân. Cho nên những ngày thiêng liêng này, nếu những ai còn lạc lõng bơ vơ nơi xú lạ, hầu hết là những kẻ bất hạnh , nên người sắt đá như Phan Bội Châu, trước cảnh cô đơn nơi xứ người, cũng cảm thấy hiu hắt buồn rầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, nhất là khắp các nơi chốn ở trên đất Trung Hoa, hầu như chốn nào tập quán cũng ít nhiều hao hao giống quê nhà. Ðây là sự thật vì cả vùng rộng lớn, từ Chiết Giang, cái nôi của nền văn hóa Ngô Việt, xuống tới Phúc Kiến (Mân Việt), Lưỡng Quảng và Vân Nam ( Âu Việt).. cùng với Việt Nam (Lạc Việt), đều có nguồn gốc phát xuất từ Bách Việt, với những phong tục tập quán, vẫn còn được duy trì và tồn tại tới ngày nay. Ðọc ký sự của người chiến sỹ quốc gia năm nào, càng thêm chua chát đắng cay, qua những lời viết khôi hài cười ra nước mắt, khi ông cho biết trong ba ngày Tết, cả nước Tàu bỗng dưng hiền khô và dễ thương, nên ông đi đâu cũng được thiên hạ ân cần mời cơm ăn, rượu uống, làm cho người lạc xứ phải say mèm, phần vì rượu nhưng trên hết vẫn là say cái cảnh đầm ấm hạnh phúc nới đất người.
+ TẾT THA PHƯƠNG Ờ XIÊM LA :
Thời Pháp thuộc, số lương của Việt kiều sinh sống tại Thái Lan không ai biết được, kể cả chính quyền Xiêm La và thực dân Tây ở Ðông dương, ngoại trừ những tổ chức cách mạng bản địa. Sỏ dĩ có vấn đề đó là vì hầu hết Việt kiều tại Thái Lan đều tham gia vào các lực lượng chính trị, do đó không ai muốn cho Tòa Lãnh sự Pháp tại Xiêm La, biết rõ lý lịch để mang phiền lụy hay bị bắt bớ . Phần khác đa số người Việt tại Thái do mặc cảm bị quốc nhục khi tới đây, qua những lời hạ bạc như ‘ Xào Mương Khữu ‘ tức ‘ Dân Vong Quốc ‘ hay ‘ Keo, Duồn, Khẩu, Nậm ‘ tức ‘ Thằng An-Nam kiếm ăn ở nhờ’. Cũng vì vậy mà ai cũng muốn học tiếng Thái và cố gắng làm ăn cho có tiền, để mau chóng được nhập tịch Thái. Có vậy họ mới thoát được pháp lý , vì không phải là người VN đang bị thực dân thống trị tại Ðông Dương. Từ sau năm 1954, VNCH có liên hệ ngoại giao với Thái Lan, nên phần nào tổng kết được một cách đại khái số lương Việt kiều và những địa phương có đông người Việt cư ngụ trên đất Thái như : Na Khon, Nong Khai, U Bon, Mar Keng, Ou Then, Xieng May..
Căn cứ vào báo chí của Người Việt xuất bản tại Thái, thì Người Việt đến đây qua bốn đợt, bắt đầu từ thời Minh Mạng (1820-1840) cấm đạo Thiên Chúa, thời kỳ thứ hai (1885-1897) xảy ra phong trào Cần Vương đánh Pháp, thời kỳ thứ ba , chiến tranh biên giới Lào-Thái vào năm 1939 và thời kỳ cuối cùng (1946-1954) , chiến tranh Ðông Dương. Thái Lan hiện có 10 tỉnh, trong đó hai tỉnh lớn nhất là Korat (Kho Rat) và Udon (Oudonne), chiếm tới 2/5 diện tích cả nước. Theo sử liệu, hai tỉnh này là lãnh thổ của Lào, nằm phía bên kia sông Cửu Long, đã bị Xiêm La dùng bạo lực cưởng chiếm. Hai tỉnh này có rất nhiều Việt kiều trú ngụ, tại các Phủ Na Khon, Houthène, Sakhon, Counfvapit, Nong Khai, Bang Hen, Khon Khen, Ta Bot, Loeui, Fanranat, Phanonte, Nakés, Mouk.. Ngoài ra Việt kiều còn ở rải rác tại các tỉnh Parnamfo, Fichit và Chiengmay thuộc miền tây bắc Thái. Riêng thủ đô Vọng Các có it Việt kiều sinh sống, mặc dù đây là thương cảng, có bến tàu từ tứ xứ tới.
Thời đó để đối phó với các tổ chức chính trị của người Việt, từ VN và Trung Hoa sang đất Thái, nên thực dân Pháp đả đặt Tòa Lãnh sự và một mạng lưới công an mật thám như mạng nhện, để giăng bắt những nhà cách mạng tới đây hoạt động. Do đó Vọng Các cũng là nấm mộ đã chôn không biết bao nhiêu nhà ái quốc chí sĩ VN. Chính Tăng Bạt Hổ, Mai Lão Bạng, Lưu Khai Hồng, Ðặng Thái Thuyên, Lê Ðại, Ngô Chính Quốc, Ðặng Tử Mẫn, Bùi Chính Lộ.. những chiến sĩ của phong trào Ðông Du, Quang Phục và Thanh Niên Ðồng Minh hội.. đều rời vào cạm bẫy của thực dân Pháp tại Vọng Các. Riêng Phan Bội Châu vào năm 1911, đã may mắn trong gang tấc thoát được mật thám Pháp cũng ở nơi này. Do trên trong ‘ Tự Phán’ Phan Bội Châu đã viết rằng Vọng Các là một hang hùm, ổ rắn độc của chúng ta.
Ðặng Thúc Hứa tự Ngọ Sanh, người Nghệ An, là đồng chí của Cường Ðể, Nguyễn Thượng Huyền, Phan Bội Châu trong phong trào Ðông Du, Duy Tân và VN Quang Phục Hội, từ tới Nhật theo học Trường Khổ Công Học Hiệu tại Ðông Kinh. Năm 1908, sau khi bị chính quyền sở tại trục xuất, Ðặng Thúc Hứa được lệnh của tổ chức tới Xiêm La, để lãnh đạo các tổ chức cách mạng VN tại đây. Trước khi phong trào Ðông Du từ Nhật sang Xiêm La, Việt kiều tại Thái dù chưa có một tổ chức cách mạng nào, dù đa số đều thuộc các đội nghĩa quân Cần vương miền Nam của Trương Công Ðinh, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Thanh Tòng.. hay ở miền Trung của các lãnh tụ Trần Hải, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Lê Trung Ðình, Nguyễn Hiệu, Mai Xuân Thưởng.. sau khi các căn cứ bị Pháp phá vở, đã theo đường biển, đường núi, xuyên qua Hạ Lào, Cao Mên, chạy sang đất Thái , để xây dựng các cơ sở cách mạng tại Oubon, Xỉ Xã Kệch.. nhờ vua Thái là Fraonchant 6 che chở., từng nhiều lần vượt sông Cửu Long , tấn công các đồn Pháp tại Paks1, Attopeu.. ở Hạ Lào.
Từ năm 1908 về sau, qua sự lãnh đạo của các chí sĩ cách mạng trong phong trào Ðông Du, cơ sở cách mạng của Việt kiều tại Thái Lan đã phát triển rất nhiều như Bạn May, Bạn Vatapas, Bạn Banboche, thuộc tỉnh Lakhon. Ở phủ Oudonne có Bạn Nôông Bùa, Bạn Nôông Ổn. Khi Phan Bội Châu tới Xiêm, đã lập Bạn Ðông Thầm tại Phi Chịt, với các nam nữ chiến sĩ can trường , hùng liệt, được người địa phương gọi là ‘ Sứa Mường Thày ‘ (Cọp ở Thái) . Ðó là Võ Trọng Ðài, Lê Xuân Ngân, Nguyễn Trung Chánh, Nguyễn Tài, Nguyễn Ðức Thảo, Trạch Phong.. Tóm lại sau ngày phong trào Ðông Du tại Nhật Bổn bị tan vở, một nửa cỡ sở sang Tàu, phần còn lại tới Xiêm tiếp tục hoạt động cách mạng, với các lãnh tụ Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Ðặng Tử Kính, Ðinh Doãn Tế, Ðặng Thúc Hứa, Võ Trọng Ðài, Nguyễn Thức Ðường, Mai Lão Bạng. Năm Tân hợi 1911 cuộc cách mạng lật đổ nhà Mãn Thanh ở Trung Hoa thành công như một luồng gió mới thổi vào các chiến sĩ cách mạng VN đang bôn ba đấu tranh chống thực dân Pháp tại hải ngoại. Từ đó tổ chức VN Quang Phục Hội ra đời ở Tàu và trong các địa phương tại Thái Lan có Việt kiều cư ngụ. Vì vậy Phan Sào Nam lại phải rời đất Xiêm sang Tàu và giao các cơ sở cách mạng ở đây cho Ðặng Tử Kính, Võ Trọng Ðài và Ðặng Thúc Hứa .
Dưới sự lãnh đạo của VN Quang Phục Hội, các tổ chức chính trị của Việt kiều tại Thái Lan đã hoạt động rất tích cực , từ việc ấn hành các tài liệu cứu nước như Ái quốc ca, Ái chủng ca, Ái đaòn ca, Hoán tình quốc dân, Quang phục quân phương lược .. Song song, VN Quang phục hội còn cử Tùng Nham Nguyễn Văn Ngôn, từ Xiêm về Việt Bắc , giúp Hoàng Hoa Thám đẩy mạnh cuộc chống Pháp tại căn cứ Yên Thế, Phồn Xương, Thái Nguyên. Lại cử Sư Ông Rau về Cao Mên và Nam Kỳ lập các tổ chức VN Quang phục cách mạng.
Thế chiến 2 tại Âu Châu, Pháp bị Ðức đánh bại phải đầu hàng một cách nhục nhã. Dựa vào thời cuộc quốc tế, Phan Bội Châu chuyển hướng đấu tranh bằng võ trang khắp nơi trong nước, như vụ Hà Thành đầu độc,cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Trịnh văn Cấn-Lương Ngọc Quyến, ném bom Hà Nội-Thái Bình, cuộc khởi nghĩa của Vua Duy Tân-Thái Phiên-Trần Cao Vân ở Huế.. Ðồng lúc từ các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, các nhà cáh mạng VN Quang Phục Hội gồm Nguyễn Hải Thần, Hoàng Trọng Mậu và Nguyễn Thúc Ðường, chỉ huy ba đạo quân Việt Quốc, kéo về tấn công các đồn Pháp ở biên giới Hoa-Việt. Trong nội địa nước Thái, Việt kiều trong tổ chức Quang Phục Hội, qua sự giúp đỡ của Tòa Lãnh sự Ðức ở Vọng Các, nên cũng tổ chức được 3 đạo Nghĩa quân, dưới quyền chỉ huy của Ðinh Doãn Tế, Ng6 Quang.. vượt sông Cửu Long, tấn công các đồn binh của thực dân Pháp tại biên giới Thái-Lào ở Hin Bun, Savannakhek, Paksé..
Ngày 11 tháng 5 năm Ất Sửu nhằm tháng 7-1925, Phan Bội Châu từ Hàng Châu lên Thượng Hải, định đáp tàu thủy về Quảng Ðông, để kịp dự cuộc tế lễ , kỷ niệm cai chết của liệt sĩ Phạm Hồng Thái , do các đoàn thể cách mạng VN hải ngoại tổ chức. Nhưng không ngờ khi tới ga Bắc Tạm, Phan Bội Châu bị Việt gian chỉ điểm cho mật thám Pháp bắt cóc, chở bằng tàu hải quân về Hà Nội để tử hình. Tuy nhiên giặc Pháp đâu ngờ rằng, sau tiếng bom của người chiến sĩ Pham Hồng Thái nổ tại Sa Ðiện, đã làm người Việt trong và ngoài nước bừng bừng nổi dậy. Vì vậy vừa nhận được tin Lãnh tụ Phan Bội Châu sắp bị thực dân đem lên mây chém. Thế là đồng bào từ nam va bắc, Sài Gòn,Hà Nội, Huế hay bất cứ nơi nào, sinh viên học sinh, nông dân thợ thuyền, người bình dân cho tới hàng tr1 thức, lớp lớp ào ạt đình công bãi thị, biểu tình đòi Pháp phải ân xá ngay cho vị anh hùng dân tộc VN. Tại Thái Lan, Việt kiều qua sự lãnh đạo của các nhà cách mạng VN Quang Phục Hội như Ðặng Thúc Hứa, Võ Trọng Ðài,Cố Khôn, Thạch Phong, Lưu Khai Hồng.. bất kể thuộc thành phần nào, công giáo hay đạo Phật, khắp nơi trên đất Thái, từ Oubon, Vọng Các đến các xứ đạo Tha Hệ, Noóng Xến, đã tranh đấu bằng đủ mọi hình thức như biểu tình trước sứ quán Pháp ở Bangkok,đăng báo bằng Thái và Anh ngữ cũng như nhờ các Cha xứ , vận động Tòa Thánh La Mã, bắt Pháp phải ân xá cho Phan Bội Châu. Do tất cả các lý do trên, khiến giặc Pháp không dám giết Phan Sào Nam, chứ thật ra chúng chẳng nhân đạo gì, nhất là đối với người lãnh tụ phong trào Ðông Du kiệt hiệt và có uy tín nhất với người Việt và hải ngoại lúc đó, cũng như mãi mãi sau này.
Cũng từ đó về sau, dù Phan Bội Châu làm thân cá chậu chim lồng trong tử địa tại Bến Ngự ố Huế nhưng tiếng tăm của ông, cộng với tiếng bom Sa Ðiện và dư âm của hàng triệu người đã tham dự ngày quốc táng lãnh tụ phong trào Duy Tân là Phan Chu Trinh, đã mở đường cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, của nhiều đảng phái chính trị như VN Quốc Dân Ðảng, Tân Việt Cách Mạng Ðảng, VN Cách Mạng Ðồng Minh Hội (Việt Minh), Hội kín NguyễnAn Ninh.. nam nữ các thế hệ VN, nối tiếp con đường cứu nước dang dở của các sĩ phu Văn Thân, Cần Vương, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Cường Ðể, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng .. và nhát là Phan Bội Châu.. cho tới khi cả nước, đồng chiến đấu chung trong Mặt Trận Việt Minh, đánh đuổi được giặc Pháp, ra khỏi bờ cõi Hồng-Lạc vào tháng 7-1954.
Theo những trang ký sự còn ghi , cho thấy Phan Bội Châu đã sống lưu vong nhiều năm trên đất Thái. Theo ông, Tết ở Xiêm chỉ chú trọng tới lễ Phật là trên hết, tuy nhiên đối với người VN vẫn có nhiều khác biệt, dù cả hai đều tới chùa cúng lạy với hương hoa trà quả và pháo nổ vang trời. Nhưng đó là đối với Tết Xuân của người thiên hạ, với Phan Bội Châu lúc đó đang sống với các đồng chí tại đồn điền Bạn Thầm. Ðây là một miền đất hoang vu chừng 30 mẫu, được chính phủ Thái cấp cho các nhà cách mạng lưu vong VN như Ðặng Tử Kính, Ðặng Ngọ Sinh.. tất cả chừng 40 người. Lúc Phan Bội từ Nhật tới đây, cũng đã cùng anh em dùng hai bàn tay trắng, khái phá đất hoang để kiếm gạo nuôi sống hàng ngày. Lúc đó ai cũng lao động, suốt ngày, còn cụ Phan vì không quen chuyện cày cuốc nên cũng phải vào núi để hái trà hoang, đem về nấu cho anh em uống . Làm việc suốt năm chỉ được nghỉ có sáng mồng một Tết Nguyên Ðán nhưng không phải để ăn uống món ngon vật lạ, mà là ngồi quây quần bên nhau, để hướng về quê hương nơi cõi muôn trùng, rồi nhớ thương qua những lời ca tiếng hát Ái quốc ca, Ái chủng ca, Ái chủng ca.. Lời ca hòa lẫn tiếng vỗ tay đánh nhịp thay tiếng pháo, giữa khung trời tự do mượn tạm nơi đất khách nhưng đối với mọi người, thì đó là niềm hạnh phúc không bao giờ có tại quê nhà đang quằn quại hận hờn dưới gót giầy đô hộ của thực dân Pháp.
Cuói chạp gần sắp Tết Tân Hợi (1911), đang lúc mọi người hờ hững đợi một thêm một xuân tha hương trên đất người, thì cuộc cách mạng lật đổ nhà Mãn Thanh trên đất Tàu đã thành công . Do đó, các lãnh tụ Trung Hoa QuốcDân Ðảng như Tôn Văn, Hoàng Khắc Cường.. muốn giúp đỡ các chính khách VN , nhất là Phan Bội Châu. Nhưng từ Xiêm muốn qua Tàu lúc đó, tiềm lệ phí không phải là ít, khi mặt thật tài chánh tại đồn điền Bạn Thầm , thu góp chung chỉ đếm được 30 bạc. Số tiền này theo thời giá lúc đó, cũng chỉ đủ để Phan Bội Châu và Ðặng Tử Mẫn mua vé xe lửa tới Vọng Các mà thôi. Cuối cùng hai nhà cách mạng VN đã phải dùng khổ nhục kế “ Hành Khuất “ , để còn số tiền 30 bạc, mua hai vé tàu thủy tới Hương Cảng. Thời gian rời Bạn Thầm đúng 29 Tết, Phan Bội Châu tói Quảng Ðong vào những ngày đầu tháng giêng năm Quý Sửu (1912) để kịp thành lập VN Quang Phục Hội, trên đất Trung Hoa.
Hơn 100 năm trước, hàng hàng lớp lớp những người trẻ tuổi , mà Phan Bội Châu ví như một con chim đầu đàn, lớp chết lớp kế tiếp nhau vào tù ăn tết ở trong tù hay bị giam lỏng mãn đời trong tử địa. Ngày nay tên tuổi Phan Bội Châu được gắn liền với bao thế hệ thanh niên nam nữ Bình Thuận, qua ngôi trường trung học công lập tại thị xã Phan Thiết hơn nửa thế kỷ thăng trầm biển dâu trầm thống. Nhớ Phan Bội Châu cũng đâu bao giờ dám quên những anh hùng liệt sĩ yêu nước làm rạng danh sông núi Bình Thuận như Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Ưng Chiếm, Bùi Hành, Cao Hàng, Phan Chánh, Lê Công Chánh, T?ng Hưng Nho, Nguyễn Ðặng Giai.. Vũ Anh Khanh và trăm ngàn thanh niên thiếu nữ anh hào cận sử.
Sống cho dù có khoa bảng trí thức nơi xứ người nhưng dưới con mắt của địa phương, ta đâu có khác gì tên mọi Tây hay Mỹ ?. sao bằng vì nước mả hy sinh nhu Trần Van Bá, Hoàng Cơ Minh, Trần Thiện Khải.. hay sống trong tù giặc như Võ Ðại Tôn, Lý Tống, Nguyễn Thị Ngọc Hạnh hiện nay, hay vui những cái tết hành khuất như các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, vẫn danh thơm muôn thuở -/-
Mường Giang
Không có nhận xét nào