Ngày Hoa Kỳ rút khỏi Hội đồng Nhân
quyền Liên Hợp Quốc năm 2018, Đại sứ lúc bấy giờ là Nikki Haley gọi tổ
chức này là “cơ chế bảo vệ cho chính những kẻ vi phạm nhân quyền trong
một thời gian quá dài”. Các nhà nghiên cứu cho rằng bà nói không sai.
Toà nhà Liên Hợp Quốc tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Ảnh: AFP |
Trong
lịch sử hơn 70 năm của mình, chế định nhân quyền có tiếng nói nhất của
Liên Hợp Quốc (LHQ) luôn phải gánh chịu những chỉ trích nặng nề từ cả
hai phía: những quốc gia có xu hướng độc tài cũng như những quốc gia có
xu hướng tự do.
Ra
đời với mục tiêu cao cả là ngăn chặn sự trở lại của những hành vi phi
nhân tính đã từng xảy ra trong Đệ nhị Thế chiến, điều gì khiến cho tổ
chức này bị phê bình như vậy? Bài viết này tìm câu trả lời cho câu hỏi
đó.
Ủy ban LHQ về Nhân quyền: “Hiệp hội của những Chí Phèo”?
Cho đến nay, sự phát triển của chế định nhân quyền trực thuộc LHQ có thể phân chia làm hai giai đoạn:
Một
là giai đoạn của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Nhân quyền (UN Commission on
Human Rights), vốn chấm dứt vào năm 2006. Hai là giai đoạn từ 2006 đến
nay, với sự thế chỗ của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UN Human
Rights Committee). Đáng tiếc là trong cả hai giai đoạn, cả Ủy ban lẫn
Hội đồng đều chịu những chỉ trích tương tự nhau.
Một
mặt, cần thừa nhận rằng Ủy ban là một bước tiến cực kỳ quan trọng thời
kỳ giữa thế kỷ 20. Khi đó, khái niệm nhân quyền và khả năng can thiệp
của các tổ chức quốc tế vào tình hình nhân quyền tại một quốc gia còn
rất mơ hồ.
Phiên
họp đầu tiên của Ban Soạn thảo Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế, trực
thuộc Ủy ban Liên Hợp Quốc về Nhân quyền, ngày 9/6/1947 tại New York,
Hoa Kỳ. Ảnh: universal-rights.org.
Ủy
ban chính là cơ quan đề xướng cho sự tham gia của các tổ chức nhân
quyền độc lập và biến nó trở thành một bộ phận không thể tách rời của
các chế định nhân quyền LHQ mới. Không chỉ vậy, hệ thống thủ tục điều
tra nhân quyền cùng với sự hình thành của các chuyên gia độc lập
(independent experts) hay báo cáo viên đặc biệt (special rapporteurs)
tiếp tục là những sáng kiến, những thành tựu vượt thời gian và sẽ còn
đóng vai trò quan trọng trong tương lai của hoạt động bảo vệ và cổ xúy
nhân quyền quốc tế.
Mặt
khác, với bản chất là một cơ quan chấp hành trực thuộc một tổ chức
quyết định dựa trên đa số và đậm màu chính trị – Đại Hội Đồng Liên Hợp
Quốc – Ủy ban Nhân quyền nhanh chóng rơi vào tình thế khó.
Đầu
tiên là về cách tiếp cận đối với vi phạm nhân quyền tại từng quốc gia,
thường được gọi là hiện tượng chắt lọc đối tượng (selectivity).
Khi
vừa mới thành lập, dù Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế đã được xem là có
hiệu lực quốc tế, Ủy ban vẫn chưa có thẩm quyền điều tra, đánh giá tình
trạng, và cáo buộc nhân quyền của các quốc gia thành viên LHQ.
Phải
đến thời điểm Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị 1967 và
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1970 có hiệu
lực thì tình hình mới thay đổi.
Qua
các nghị quyết 1235 và 1503, Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên Hợp Quốc
(ECOSOC) chính thức uỷ quyền cho Uỷ ban để tiến hành điều tra về “những
hành vi vi phạm cơ bản và nghiêm trọng quyền con người tại các quốc gia
thành viên”, cũng như việc “xem xét những hành vi vi phạm nhân quyền cụ
thể thông qua nghị quyết chung”.
Ít ai ngờ rằng, chính sáng kiến thủ tục này trở thành lý do khiến cho Ủy ban bị giải thể.
Trước
tiên, do làm việc dựa trên số đông, chỉ có những quốc gia ít có kết nối
với địa chính trị khu vực và thế giới mới có thể trở thành đối tượng
của quá trình điều tra và bị lên án bằng các nghị quyết chung.
Israel
là một trong những quốc gia như thế. Dù là đồng minh thân thiết nhất
của Hoa Kỳ, Israel tương đối cô độc trong khu vực khi so sánh với Tổ
chức Hợp tác Hồi Giáo (Organisation of Islamic Cooperation) đông đảo
(nay đã có hơn 50 quốc gia thành viên), vốn có thù “không đội trời
chung” với họ. Vì vậy, quốc gia này trở thành kẻ bị đấu tố trong các
buổi họp về tình trạng nhân quyền thế giới. Rất nhiều các nghị quyết phê
phán tình trạng nhân quyền được thông qua trong thời kỳ Ủy ban đều nhắm
vào Israel. Nhóm các quốc gia cũng có các vấn đề nhân quyền nghiêm
trọng trong khoảng thời gian đó cũng tham gia cuộc “đấu tố” có chọn lọc
để đảm bảo trường hợp của nước họ không bị mang ra bàn bạc. Nhóm này gồm
có Trung Quốc, Iraq, Cuba, nhiều quốc gia châu Mỹ Latin và kể cả Việt
Nam.
Song
ngay cả khi các vấn đề của họ bị đẩy lên nghị trình chung của Ủy ban,
quá trình quyết định dựa theo số đông vẫn có thể bị tác động nghiêm
trọng. Bằng việc kêu gọi đồng minh ủng hộ, họ có thể khiến cho ngôn ngữ
nghị quyết bớt đi tính chỉ trích, những vi phạm nhân quyền cụ thể không
được thảo luận, và nghị quyết cuối cùng không thể được thông qua.
Do
sự thao túng của các liên minh này, dự thảo nghị quyết yêu cầu Nga
trình bày về vấn đề Chechnya nhanh chóng bị từ bỏ. Tương tự, là trường
hợp yêu cầu Zimbabwe và Sudan giải trình về những vi phạm nhân quyền đối
với chính công dân của họ.
Sau
khi thực hiện một cuộc đàn áp vô tiền khoáng hậu bỏ tù liên tục 79 nhà
hoạt động, trí thức vào năm 2003, Cuba cũng đã bị Ủy ban nhắm đến. Song
sự hậu thuẫn của những người “anh em” Algeria, China, Pakistan, Russia,
Syria, Việt Nam, Zimbabwe và Sudan đã giúp cho chính quyền Fidel Castro
thậm chí còn không phải giải trình ý kiến gì trước Ủy ban Nhân Quyền.
Trong
nhiều trường hợp, các thành viên còn đồng thuận sử dụng “no-action
motion”. Đó là một loại hình bỏ phiếu giữa thời điểm nghị luận của các
cơ quan trực thuộc LHQ, để quyết định việc có nên tiếp tục bàn và xem
xét một vấn đề hoặc một nghị quyết hay không.
Đến đầu những năm 2000, Ủy ban mất gần như mọi uy tín của mình.
Theo
nhiều chuyên gia, thậm chí là các quốc gia thành viên cũng như Cao Ủy
Nhân quyền Liên Hợp Quốc, Ủy ban Nhân quyền giờ đây là một chiến trường
để né tránh các cáo buộc nhân quyền. Các thành viên dành nhiều thời gian
để ngăn chặn thông qua các nghị quyết hơn là tìm cách thỏa hiệp vì một
mục tiêu nhân quyền chung
Phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại phiên điều trần UPR tháng 1/2019 tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Ảnh: HRC Secretariat. |
Hội đồng Nhân quyền: Bình mới, rượu cũ…?
Sự
ra đời của Hội đồng Nhân quyền là một trong những nỗ lực rất lớn của
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan để cải cách chế định nhân quyền cũ
đã hoàn toàn mất uy tín. Năm 2005, ông kêu gọi giải thể Ủy ban Nhân
quyền để thành lập nên một cơ quan mới với những công cụ mới.
Trong
đó, sáng kiến đáng giá nhất chính là cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ Quát
(Universal Periodic Review – UPR). Cơ chế này bắt buộc tất cả các thành
viên của Liên Hợp Quốc phải lắng nghe và phản hồi ý kiến về các vấn đề
nhân quyền từ nhiều phía, kể cả các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi
chính phủ mà quốc gia sở tại không thừa nhận.
Tuy nhiên, sau gần 15 năm vận hành, bản thân Hội đồng Nhân quyền cũng đang rơi vào tình cảnh tương tự của Uỷ ban tiền nhiệm.
Vấn đề cơ bản nhất nằm ở chính những thành viên “lãnh đạo” Hội đồng.
Hội
đồng Nhân quyền ngày nay bao gồm 47 thành viên được Đại Hội Đồng Liên
Hợp Quốc bầu chọn ra ba năm một lần, được phân bổ dựa trên khu vực. Khu
vực châu Phi và châu Á đồng thời có 13 ghế. Khu vực châu Mỹ Latin và
Caribbean mỗi bên nắm 8 ghế. Tây Âu và các nước khác, bao gồm cả Hoa Kỳ,
Canada, Australia và New Zealand chỉ có 7 ghế. Và cuối cùng, Đông Âu
được giao quota 6 ghế.
Nhìn
vào thành phần của cơ quan quyền lực cao nhất về nhân quyền của Liên
Hợp Quốc, không cần am hiểu lắm cũng có thể thấy rằng những nghị quyết
chung về nhân quyền của Hội đồng sẽ do ai quyết định. Quyền lực sẽ tiếp
tục nằm trong tay của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, những anh chàng kỹ trị
châu Á và những quốc gia vi phạm nhân quyền khét tiếng đến từ Mỹ Latin.
UPR
thật sự đã giảm thiểu tình trạng chọn lọc và tấn công các mục tiêu đơn
lẻ. Tuy vậy, với sự có mặt đông đảo của các “cựu Chí Phèo” từ Ủy ban di
dân sang, những quốc gia có tình trạng nhân quyền kém chỉ cần duy trì
được hệ thống đồng minh của mình là có được miễn tử kim bài.
Đa
số các đóng góp trong những phiên họp UPR, cũng vì vậy, chỉ để “cho qua
chuyện”, không giúp ích gì cho việc tạo áp lực để cải thiện và đổi mới
hệ thống nhân quyền quốc gia.
Bên
ngoài UPR, Israel tiếp tục bị chọn lọc trở thành vật tế thần trong các
buổi họp. Và những quốc gia phê bình Israel là ai? Là Saudi Arabia,
Venezuela, Philippines hay Ethiopia, những nước có tình trạng không hề
tích cực hơn.
Saudi
Arabia tiếp tục phổ biến các giá trị Hồi giáo nguyên thủy và cực đoan,
hạn chế quyền phụ nữ và cấm đoán quyền tự do tôn giáo.
Venezuela
đã trở nên quá khét tiếng với những hoạt động đàn áp, vũ lực dành cho
người biểu tình; can thiệp vào tự do bầu cử cũng như thất bại trong việc
duy trì an sinh xã hội cho người dân.
Trung
Quốc vốn là “ông kẹ” trong giới vi phạm nhân quyền thế giới và không có
dấu hiệu thay đổi. Họ vẫn nghiễm nghiên ngồi mâm trên dù đang bị toàn
cầu phê phán kịch liệt trong các vấn đề tại Hong Kong và Tân Cương.
Và
còn rất nhiều những thành viên tương tự khác nữa. Cơ cấu bầu chọn thành
viên thiếu cân nhắc về tình hình nhân quyền này là một trong những lý
do khiến nhiều học giả, trong đó có Brett Schaefer, cho rằng Hội đồng
Nhân quyền là không thể sửa chữa.
Khó
có một nhà hoạt động nhân quyền, một luật sư quốc tế nào dám nghĩ rằng
họ có thể đóng góp được gì tích cực cho tình hình nhân quyền thế giới
với cơ chế này.
Từ bỏ có phải là lựa chọn tốt?
Với tất cả những vấn đề đã kể đến ở trên, từ bỏ có phải là cách?
Liệu
việc Hoa Kỳ quyết định rời ghế của mình trong Hội đồng Nhân quyền có
giúp các cơ chế nhân quyền LHQ vận hành tốt hơn? Người viết không nghĩ
là như vậy.
Đúng
rằng cơ chế thành viên vẫn là một vấn đề nhức nhối, khi mà Lybia và
Syria chỉ bị tước bỏ ghế thành viên khi quân đội của họ đã bắt đầu giết
dân thường trên đường phố. Đúng rằng Israel tiếp tục là bị Hội đồng Nhân
quyền nhắm đến như vật tế thần, với hơn 70 nghị quyết chỉ trích và lên
án; so với 7 của Iran; 0 của Việt Nam và 0 từ Trung Quốc.
Nhưng
cùng lúc đó, việc có một cơ chế đối thoại và kiểm tra nhân quyền như
UPR đã và đang giúp rất nhiều tiếng nói của nạn nhân được lắng nghe, ghi
nhận và lưu trữ. Hội đồng Nhân quyền vẫn sẽ là nơi tiếp tục ghi nhận
những cam kết nhân quyền của những quốc gia khét tiếng nhất. Đó là những
việc cần làm để đảm bảo rằng các nguyên tắc nhân quyền sẽ được thừa
nhận đủ rộng, đủ sâu để trở thành những quy phạm tối cao (erga omnes)
trong pháp luật quốc tế.
Người
viết đồng tình với cố Tổng Thư ký Kofi Annan rằng, Liên Hợp Quốc dù thế
nào vẫn là rào cản cuối cùng cho những vi phạm nhân quyền vô pháp của
các quốc gia độc tài trên thế giới. Thể chế nhân quyền của LHQ đòi hỏi
chúng ta tích cực tham gia, sửa chữa và xây dựng lại khi cần. Từ bỏ
không phải là giải pháp, mà chỉ là chấp nhận thua cuộc mà thôi.
Võ Văn Quản
(Luật Khoa)
Không có nhận xét nào