Việt Nam đang nỗ lực cải thiện hình
ảnh quốc gia và chủ trương xây dựng 'chính phủ kiến tạo.' Nhưng nhiều sự
kiện gần đây lại cho thấy nhiều điểm nghẽn trong quá trình thực hiện.
Sự phát triển của Việt Nam đang gặp những "điểm nghẽn thể chế" |
Hình
ảnh quốc gia, từ sự vận hành của thể chế đến phản ứng của chính phủ
trong quan hệ quốc tế, vốn có ý nghĩa quan trọng để thu hút đầu tư nói
riêng và quan hệ kinh tế với các nước chung.
Việt Nam đang nỗ lực thể hiện hình ảnh quốc gia theo hướng tích cực.
Hành
động kịp thời trước sự kiện 'Hạ tín nhiệm quốc gia' của Tổ chức xếp
hạng tín nhiệm Moody's Investors Service vừa qua đối với Việt Nam và sự
thay đổi cách điều hành của 'Chính phủ kiến tạo' đang tạo hình ảnh tích
cực trước các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy
nhiên, trong bối cảnh quốc tế và trong nước rất phức tạp hiện nay, cải
cách thể chế cần có sự thay đổi bước ngoặt, tạo đột phá để phát triển.
Hành động kịp thời
Ngày 18/12, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody's đã hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam xuống Tiêu cực.
Trước
đó, Moody's đã đưa hồ sơ tín dụng của Việt Nam vào diện theo dõi hạ
bậc, nhưng không nhận được phúc đáp khi kết thúc thời hạn.
Tổ
chức này nhận định, vẫn tiềm ẩn rủi ro chậm trả nghĩa vụ nợ gián tiếp
của Chính phủ trong bối cảnh chưa có những giải pháp rõ ràng để cải
thiện công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan, cũng như tăng cường
tính minh bạch về quản lý nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Tiếp theo sự kiện trên, ngày 20/12 Moody's hạ triển vọng tín nhiệm với 18 ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam.
Phản
ứng trước đánh giá của Moody's, Bộ Tài chính Việt Nam cho rằng, đó là
quyết định 'không xác đáng' khi chỉ dựa trên sự việc riêng lẻ đối với
nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ mà bỏ qua thành tựu toàn diện Việt
Nam đã đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội…
Việc
bị hạ triển vọng tín nhiệm không chỉ ảnh hưởng đến việc huy động vốn từ
nước ngoài của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trong nước,
mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư và hình ảnh quốc gia của
Việt Nam nói chung.
Nhận
thức đây là sự bất cập về thể chế, Tổ công tác của Thủ tướng đã làm
việc với các bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Công
Thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về những nội dung liên quan đến
trách nhiệm trong việc chậm thanh toán, trả nợ nước ngoài đối với một số
dự án.
Được
biết, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo ban hành các Quyết định cho
phép ứng Quỹ tích lũy trả nợ để thanh toán…, nhưng do việc phối hợp
không tốt giữa các bộ, ngành có liên quan nên dẫn đến hậu quả tiêu cực.
Ông
Bộ trưởng, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng nhấn mạnh: "… đây là
trách nhiệm rất lớn. Thủ tướng rất không hài lòng, yêu cầu kiểm điểm tập
thể, cá nhân liên quan, làm rõ trách nhiệm để báo cáo Chính phủ và Thủ
tướng".
Những
vấn đề 'tắc nghẽn thể chế' biểu hiện trong nhiều khía cạnh và đã được
chỉ ra như 'trên bảo dưới không nghe', 'trên nóng dưới lạnh', 'cục bộ
địa phương, bộ ngành'… cản trở sự phát triển của đất nước.
Lần này là sự thiếu phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng khiến cho tín nhiệm quốc gia của Việt Nam bị hạ bậc.
Theo
tôi, phản ứng như trên của Bộ Tài chính Việt Nam cũng là điều có thể
hiểu khi khả năng tài chính quốc gia để trả nợ nằm trong tầm kiểm soát.
Nhưng liệu Moody's có 'ác cảm' với trường hợp Việt Nam?
Câu trả lời là không.
Moody's
là Tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín và các tiêu chuẩn đánh giá là
minh bạch và áp dụng 'công bằng' đối với các nền kinh tế. Hơn thế, các
nhà đầu tư, các đối tác kinh tế trên thế giới coi đây là chỉ báo quan
trọng.
Chính
phủ Việt Nam đã hành động kịp thời đối với một sự kiện; tuy nhiên để
tạo hình ảnh quốc gia tích cực, có trách nhiệm cần thay đổi quan điểm
cũng như giải pháp cải cách thể chế nói chung, cũng như để thu hút đầu
tư nói riêng.
Chưa có sự khác biệt
Nhiều
thập kỷ qua, đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá, có một thực tế cần
được khẳng định rằng, nếu không kết nối với các dòng chảy kinh tế, đầu
tư nước ngoài, đặc biệt từ các nền kinh tế thị trường phát triển, thì
không thể có tăng trưởng.
Việt
Nam xác định tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong chính sách
phát triển. Tuy nhiên, việc áp dụng kinh nghiệm của các nước thành công
để xây dựng thể chế chưa tạo được sự khác biệt, để đáp ứng được yêu cầu
'kết nối' và 'hấp thụ' có hiệu quả, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển,
thậm chí bị tụt hậu.
Hiện
tại, Việt Nam vẫn thuộc nhóm quốc gia đang phát triển dựa trên nguồn
nguyên liệu thô, cung cấp nguồn lao động giá rẻ… và bị giới hạn trong
những hoạt động có giá trị gia tăng thấp như ngành dệt, may, da giày,
lắp ráp các sản phẩm điện hoặc điện tử… Trong khi đó, các thành tố có
giá trị gia tăng cao hơn được sản xuất tại các mắt xích khác của chuỗi
dây chuyền sản xuất xuyên quốc gia.
Việt
Nam đã và đang học kinh nghiệm của các quốc gia có khả năng kết nối với
thị trường toàn cầu và hấp thụ các dòng vốn đầu tư xuyên quốc gia vào
các mục đích phát triển nội sinh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore, thậm chí cả Malaysia và Thái Lan là các nước đã thành công ở
mức độ thấp hơn.
Việt
Nam cũng học tập và quan hệ kinh tế sâu rộng với Trung Quốc vì sự tương
đồng về chế độ chính trị. Cả hai nước đã biết cách tránh cho nền kinh
tế và nhà nước bị sụp đổ, bằng cách mở cửa và cải cách kinh tế theo
hướng thị trường, mà vẫn duy trì sự lãnh đạo toàn diện của đảng cộng
sản.
Tuy nhiên, Việt Nam còn chậm và bị động, thậm chí là mắc sai lầm, khi vận dụng những bài học kinh nghiệm.
Thay
vì khuyến khích các tập đoàn tư nhân như Samsung, Huyndai… vươn ra thế
giới trong điều kiện chuyển đổi thể chế dựa trên chủ nghĩa chuyên quyền
duy lý như ở Hàn Quốc, Chính phủ Việt Nam lại thành lập các tập đoàn
kinh tế nhà nước, và coi đó là 'quả đấm thép' cho tăng trưởng.
Bởi
vậy, việc Việt Nam hoạch định các chính sách, đơn cử như Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 với mục tiêu lớn đã không thành
công, khi chưa thiết lập được các nền tảng của thị trường và không thể
triển khai các khung thể chế và các công cụ can thiệp phù hợp với nhiều
chuỗi ngành công nghiệp.
Việt
Nam học tập Trung Quốc trong việc áp dụng chủ nghĩa tiệm tiến, tập
trung vào những ngành công nghiệp thâm dụng lao động và có hàm lượng
công nghệ thấp, như dệt may, da giày, lắp ráp… nhưng đã không thể thành
lập được các đặc khu hành chính và kinh tế để thu hút dòng đầu tư từ các
nước phát triển trong lĩnh vực chế biến hướng đến xuất khẩu.
Trung
Quốc thành công trong chuyện này từ những năm 1990, trong khi Việt Nam
đưa vấn đề ba đặc khu ra bàn thảo chậm hơn hai thập kỷ và đã bị phản đối
mạnh mẽ.
Cần 'đột phá thể chế'
Trong
bối cảnh quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá đang chững lại, chủ nghĩa dân
tộc nổi lên, trong khi tình trạng kinh tế thế giới ảm đạm, các vấn đề
biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng… các dòng chảy
kinh tế đang thay đổi phức tạp.
Cuộc
chiến thương mại Mỹ - Trung phản ánh sự thay đổi quan hệ quốc tế cho
trật tự thế giới mới, vượt quá giới hạn kinh tế và leo thang sang vấn đề
thể chế, các giá trị dân chủ, nhân quyền… đã và đang ảnh hưởng lớn đến
Việt Nam - một nước có quan hệ láng giềng và lịch sử với cả hai quốc gia
trên.
'Chính
phủ kiến tạo' là 'đột phá thể chế' trong nhiệm kỳ Đại hội 12 của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thể hiện phương châm hành động thực tế lấy phát triển
doanh nghiệp làm động lực phát triển, tạo môi trường đầu tư và kinh
doanh, đồng thời với cải cách hành chính, gỡ bỏ các rào cản, chấn chỉnh
thực thi công vụ của bộ máy.
Chính phủ kiến tạo cần minh bạch để thu hút doanh nghiệp chất lượng cao
Về
cơ bản, 'Chính phủ kiến tạo' tương đồng với mô hình nhà nước chuyên
quyền duy lý của các 'con rồng' châu Á. Mô hình này đòi hỏi một nhà nước
mạnh, người đứng đầu chính phủ bản lĩnh, quyết đoán và bộ máy hành
chính chuyên nghiệp.
Tuy
nhiên, sự chuyển đổi từ nhà nước toàn trị, đảng trị sang mô hình quản
lý này trong điều kiện Việt Nam là một thách thức lớn, đòi hỏi sự đồng
thuận của lãnh đạo tập thể và linh hoạt về ý thức hệ.
Ở
đây, cần lưu ý rằng, các quốc gia thành công kinh tế ở châu Á nêu trên,
sau thời kỳ tăng trưởng cao, đã chuyển đổi sang thể chế dân chủ phù hợp
với thị trường. Liệu đây có là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam?
Đối
với trường hợp Trung Quốc, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế các
nguy cơ: 'không cân đối', 'không bình đẳng', 'không phối hợp' và 'không
bền vững' mặc dù đã được cảnh báo, tuy nhiên chúng bị che lấp bởi thành
tích tăng trưởng và sự tuyên truyền một chiều, nay trở nên hiện hữu.
Tình
trạng khó khăn do tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nguy cơ nổ 'bong
bóng' nợ, bất động sản và các vấn đề xã hội, môi trường… trở nên nghiêm
trọng.
Chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung như 'giọt nước tràn ly' và căng thẳng thêm
bởi các vấn đề dân chủ ở Hong Kong và nhân quyền ở Tân Cương.
Theo
tôi, trước thềm Đại hội 13, cần có sự thay đổi thể chế mang tính bước
ngoặt để phát triển tránh nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp.
Ở
đây, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng thừa nhận vai trò hàng đầu của
Hoa Kỳ từ những đầu những năm 1990, để đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thúc
đẩy tự do hoá nền kinh tế trong nước và quốc tế hóa ở phạm vi toàn cầu.
Đây
là bài học phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Sự khác biệt ở
đây là cần tránh tập trung quyền lực tuyệt đối, và hơn thế là mở rộng
dân chủ theo hướng thiết lập các thể chế phù hợp với các nguyên tắc thị
trường và giá trị phổ quát.
Hơn
nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam cần dựa vào dân nhiều hơn nữa để chống tham
nhũng, chống tha hoá quyền lực, tinh gọn bộ máy và sự dụng quyền lực để
giữ gìn an ninh và trật tự xã hội.
Chính phủ phải tiến tới chuyên nghiệp hơn để 'kiến tạo' trong hoạch định chính sách phát triển và điều hành nền kinh tế.
Việc hài hoà vai trò 'ông Thiện' và 'ông Ác' là cần thiết để tiếp tục cải cách thể chế trong giai đoạn hiện nay.
TS. Phạm Quý Thọ
*
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, nguyên Chủ nhiệm Khoa
Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Việt Nam.
(BBC)
Không có nhận xét nào