Nhiều ngày qua, thông tin về việc
hàng loạt người Trung Quốc phạm nhiều tội danh nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hay thậm chí đặc biệt nghiêm trọng tại Việt Nam được trao trả cho
chính quyền Trung Quốc khiến người dân lo lắng liệu Việt Nam có đang trở
thành thiên đường tội phạm cho Trung Quốc hay không? Dù không được ghi
nhận trên các trang tin tức chính thống, một số tờ báo hoạt động ngoài
vùng kiểm soát của chính quyền như VOA hay viettin.de đã ghi nhận lại
một số bình luận của những nhà quan sát Việt Nam về vấn đề này.
Ảnh: Báo Thanh Niên. |
Và
thật sự thì người dân Việt Nam hoàn toàn có đầy đủ quyền và lý do để lo
lắng về hiện tượng nói trên. Nếu vài năm trước đây chúng ta chỉ nghe về
việc du khách Trung Quốc tràn ngập tại các địa điểm du lịch lớn của
Việt Nam và cách hành xử có phần thiếu văn minh của họ, thì giờ đây, tội
phạm Trung Quốc có tổ chức, tinh vi và đặc biệt nguy hiểm đã bắt đầu
xuất hiện, đe dọa nghiêm trọng đến trật tự an ninh quốc gia cũng như mối
quan hệ Việt – Trung.
Bắt
đầu với tin tức về việc bằng cách nào đó 400 người Trung Quốc có thể
vào Việt Nam, thuê nhà xưởng, lắp đặt một hệ thống đánh bạc hoàn thiện
và tham gia vào hoạt động đánh bạc giữa thanh thiên bạch nhật trong một
thời gian dài, người dân lại nhận thêm một cú sốc khi nghe tin bảy đối
tượng có quốc tịch Trung Quốc khác vận hành một cơ sở và đường dây sản
xuất ma túy đã tập kết được khối lượng chất ma túy lên đến 13 tấn. Trước
đó, các thông tin về việc ba thanh niên Trung Quốc giết tài xế taxi để
cướp của hay việc nhiều thành phần xấu quốc tịch Trung Quốc tại Đà Nẵng
dụ dỗ thiếu nữ Việt Nam để thực hiện hành vi giao cấu và đồng thời sản
xuất văn hóa phẩm đồi trụy cũng khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ về sự
phổ biến và liều lĩnh của tội phạm Trung Quốc tại Việt Nam.
Qua
theo dõi của người viết, cho đến nay, ngoại trừ vụ việc tại Đà Nẵng đã
có quyết định khởi tố chính thức sáu đối tượng người Trung Quốc, các vụ
việc còn lại hoặc đã trao trả cho chính quyền Bắc Kinh, hoặc có thông
tin bảy đối tượng trong vụ sản xuất ma túy cũng có khả năng cao sẽ được
trao trả.
Trao trả không phải là tương trợ tư pháp
Trước
hết, người viết cần khẳng định rằng những lập luận viện dẫn Hiệp định
Tương trợ Tư pháp Việt – Trung 1998 để lý giải cho việc trao trả những
người Trung Quốc tại Việt Nam là hoàn toàn sai, đồng quan điểm với tác
giả Võ Văn Quản trong bài viết 5 vấn đề lớn của vụ trao trả 400 người
Trung Quốc đánh bạc tại Việt Nam đã được Luật Khoa đăng tải cách đây
không lâu.
Hiệp
định tương trợ tư pháp quốc tế (tên tiếng Anh thường gọi là mutual
legal assistance treaties), thường được ký kết song phương giữa các quốc
gia với nhau nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho việc cơ quan
điều tra, công tố, xét xử của hai bên hợp tác và thi hành nhiệm vụ của
mình. Nội dung phổ biến nhất được thỏa thuận trong các hiệp định tương
trợ tư pháp thường là về dân sự và hôn nhân gia đình. Kế đó, phải kể đến
các vấn đề hình sự.
Tuy
nhiên, nội dung tương trợ thông thường sẽ giới hạn trong các yêu cầu về
hỗ trợ dịch thuật, hỗ trợ thu thập bằng chứng, điều tra, làm chứng, xác
minh thông tin, giấy tờ, công nhận và quyết định thi hành, yêu cầu miễn
hợp pháp hóa lãnh sự, cũng như cách thức và ngôn ngữ được sử dụng trong
quá trình tham vấn – yêu cầu v.v.
Ví
dụ, giả sử trong trường hợp cảnh sát Trung Quốc cần thu thập thông tin
về quá trình sinh sống và làm việc tại Việt Nam của một bị can bị bắt và
truy tố ở Trung Quốc, cảnh sát Trung Quốc sẽ gửi một văn bản chính thức
bằng tiếng Trung với dấu mộc của cơ quan yêu cầu, nhưng phải đi kèm một
văn bản dịch ra tiếng Anh có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.
Quy
định “phải dịch ra tiếng Anh” mới là dạng vấn đề mà một hiệp định tương
trợ tư pháp giải quyết, và cũng là quy định bạn đọc có thể thường tìm
thấy trong các mục tiêu tương trợ. Cần đặc biệt lưu ý rằng, rất hiếm gặp
thỏa thuận tương trợ tư pháp lại thỏa thuận về thẩm quyền điều tra của
cơ quan cảnh sát và thẩm quyền công tố, xét xử của các cơ quan tư pháp
khác giữa hai quốc gia.
Đối
chiếu kiến thức chung này với Hiệp định Tương trợ Tư pháp chính thức
Việt – Trung ký kết ngày 19/10/1998 và có hiệu lực từ ngày 25/12/1999,
có thể thấy thỏa thuận giữa hai quốc gia không có gì mới lạ. Cụ thể,
trong chương IV của Hiệp định liên quan đến các vấn đề hình sự, có năm
điều khoản quy định liên quan đến hỗ trợ (1) tống đạt giấy tờ; (2) điều
tra, thu thập chứng cứ; (3) triệu tập, bảo hộ người làm chứng, người
giám định; (4) chuyển giao tiền và tài sản do tội phạm mà có; và (5)
thông báo bản án hình sự.
Trong
các hành vi nói trên, chỉ có yêu cầu chuyển giao tiền, tài sản do phạm
tội mà có đang hiện hữu trên lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu là mang
tính chất can thiệp vào chủ quyền và công việc nội bộ của quốc gia này.
Song bên được yêu cầu cũng bảo lưu toàn quyền xem xét và cân nhắc yêu
cầu xem chúng có tuân thủ pháp luật nước mình hay không và được quyền từ
chối khi thấy những yêu cầu này không phù hợp.
Như
vậy, việc một số tờ báo và nhà quan sát (như bài báo của tờ VietNamNet)
ghi nhận cụ thể rằng “theo hiệp ước ký kết giữa hai nước về tư pháp, vụ
án này sẽ thuộc thẩm quyền điều tra mở rộng, xử lý cuối cùng của công
an Trung Quốc” là không phù hợp với nguyên tắc chung của các loại thỏa
thuận tương trợ tư pháp cũng như thực tế nội dung của hiệp định này giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
Trao trả không phải là dẫn độ
Khủng
hoảng chính trị Hong Kong liên quan trực tiếp đến dự thảo dẫn độ, đưa
ra khả năng người dân Hong Kong – cũng như người sinh sống làm việc tại
Hong Kong có thể bị dẫn độ sang Trung Quốc, hoặc bị kê biên, tịch thu
tài sản tại Hong Kong để thực hiện bản án do tòa Trung Quốc tuyên.
Không
biết trùng hợp hay hữu ý, Quốc hội Trung Quốc vừa phê chuẩn Hiệp định
dẫn độ với Việt Nam vào ngày 27/8/2019, quy định về các loại tội phạm
“có thể” dẫn đến thủ tục yêu cầu dẫn độ, trình tự, thủ tục và văn bản
cần được chuẩn bị để đề nghị thực hiện dẫn độ. Hiện báo chí Việt Nam vẫn
chưa có bài báo hay thông tin chính thức nào về vấn đề này, và về mặt
lý thuyết, Quốc hội Việt Nam vẫn chưa thông qua hiệp định nói trên. Vậy
nên có thể nói, nó vẫn chưa có hiệu lực và không thể được sử dụng để
giải thích các quyết định hành chính gần đây của cơ quan điều tra Việt
Nam.
Cần
khẳng định, Bộ Công an không có cơ sở cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn
quy phạm pháp lý để “dẫn độ” nghi phạm Trung Quốc về Trung Quốc.
Trước
tiên, cần hiểu rằng “dẫn độ” không phải là thuật ngữ pháp lý bao hàm
việc đưa công dân quốc gia mình phạm tội ở nước ngoài trở về để tòa án
quốc gia đó có thể xét xử. Các thỏa thuận dẫn độ (extradition), có lịch
sử hàng trăm năm, chủ yếu phục vụ mục tiêu theo đuổi những kẻ trốn chạy
(fugitive), tức là những người đã thực hiện hành vi phạm tội tại quốc
gia của họ nhưng lẩn tránh sang các quốc gia khác.
Ví
dụ, hãy nhớ đến trường hợp của Edward Snowden, vốn là một công dân Hoa
Kỳ. Do tiết lộ những thông tin mật của hoạt động kiểm soát an ninh mạng
của chính phủ quốc gia này, Edward Snowden bị cáo buộc phản quốc và từng
tạm lánh sang Nga để trốn tránh cơ quan tư pháp Hoa Kỳ. Ngược lại, giả
dụ như một Edward Snowden thứ hai đã phạm tội và vi phạm pháp luật tại
Nga, việc Hoa Kỳ yêu cầu trao trả Edward không mang tính chất dẫn độ
nữa, bởi vì Hoa Kỳ không có tư cách để điều tra, xét xử Edward Snowden
thứ hai này. Thẩm quyền này thuộc về cơ quan tư pháp Nga.
Trở
lại với Hiệp định Dẫn độ giữa Việt Nam – Trung Quốc có thể có hiệu lực
trong tương lai gần. Hiện tác giả đã được tìm được văn bản chính thức
tiếng Trung của Hiệp định này, và nó chứng minh được hầu hết các nguyên
tắc cơ bản chúng ta đã điểm qua đối với khái niệm dẫn độ.
Điều 4 của Hiệp định ghi nhận rõ:
“Yêu cầu dẫn độ có thể bị từ chối nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Bên
được yêu cầu có thẩm quyền xử lý hình sự đối với người được yêu cầu dẫn
độ theo pháp luật quốc gia mình, và đang trong tiến trình tố tụng hoặc
chuẩn bị cho tiến trình tố tụng.
…”
Như
vậy, cần khẳng định rằng chủ quyền quốc gia luôn được đặt hàng đầu
trong xử lý hình sự. Hiệp định dẫn độ giữa Việt Nam – Trung Quốc không
phải ngoại lệ, và quốc gia được yêu cầu giữ toàn quyền quyết định trong
việc có chấp thuận yêu cầu dẫn độ hay không. Quan trọng hơn, theo người
viết, cơ quan lập pháp Việt Nam cần có động thái cụ thể để cụ thể hóa
khung pháp lý kiểm soát hoạt động tiếp nhận và chấp thuận yêu cầu dẫn độ
thuộc thẩm quyền của Bộ Công an.
Lạm quyền quá rõ ràng?
Nguyên
tắc chủ quyền trong thẩm quyền xét xử hình sự vẫn là nguyên tắc chủ đạo
trong việc xét xử các cá nhân nước ngoài phạm tội tại Việt Nam.
Vậy
đến cuối cùng, vì sao chúng ta lại ra quyết định dẫn độ hàng loạt cá
nhân quốc tịch Trung Quốc phạm tội nguy hiểm ngay trong lãnh thổ quốc
gia mình. Câu trả lời rõ ràng nhất cho vấn đề này đến từ giải trình của
đại diện của Bộ Công an – Thứ trưởng Lê Quý Vương trước Uỷ ban Tư pháp
Quốc hội về việc trao trả 400 người Trung Quốc phạm tội:
“Do
nhóm đối tượng liên quan phía Trung Quốc. Hơn nữa, giữa hai nước đã có
ký thỏa thuận giữa hai bộ trưởng công an về hợp tác phòng chống tội
phạm”.
Như
vậy, chủ quyền quốc gia và thẩm quyền xét xử hình sự lại được bộ trưởng
công an quyết định, chứ không phải Quốc hội, và ngay cả một đại biểu
Quốc hội cũng không hay biết đến. Người viết không nghĩ rằng đây là một
câu trả lời thỏa đáng.
***
Rồi
sẽ đến lúc tội phạm Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, chủ động vi phạm
pháp luật Việt Nam, và người viết thừa nhận rằng không phải lúc nào
chính phủ Việt Nam cũng sẽ đủ chi phí để kiểm soát và tiến hành tố tụng
đối với mọi đối tượng bị bắt giữ. Tuy nhiên, để duy trì niềm tin của
người dân, chính quyền cần xử lý một cách nghiêm khắc các trường hợp
điển hình – nhạy cảm, siết chặt xuất nhập cảnh, và quan trọng nhất là
làm rõ thẩm quyền của Bộ Công an trong hoạt động dẫn độ trong tương lai.
Nguyễn Quỳnh Thiên Trang
(Luật Khoa)
Không có nhận xét nào