Mùa hè năm 1990, vào thời điểm sống
còn khi đất nước bắt đầu đi từ cải tổ sang tan rã, Mikhail S.
Gorbachev đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time
rằng “Tôi ghét những lời nói dối.” Đó là một tuyên bố mang tính cách
mạng, chỉ bởi nó xuất phát từ miệng một nhà lãnh đạo Liên Xô.
Chủ tịch Liên Xô Mikhail Gorbachev và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan trong một cuộc họp chính thức tại San Francisco, Mỹ, ngày 4/6/1990. |
Ngoài
mặt, ông chỉ đơn giản đang tung hô chính sách công khai hóa
(glasnost) của mình, chính sách cởi mở mới được giới thiệu cùng với
cải tổ (perestroika), hay việc cơ cấu lại nền kinh tế chỉ huy của
Liên Xô nhằm cứu đất nước khỏi tình trạng “rơi tự do” về địa chính trị.
Gorbachev đã đánh cược rằng quyền thể hiện ý kiến một cách thành thật
và tự do – hay một nền báo chí có thể phê bình và điều tra, sách lịch
sử không cần đổi tên nhân vật, cùng với một chính phủ trung thực và
có trách nhiệm giải trình – sẽ có thể cứu vãn thành trì đang lung
lay của chế độ Cộng sản.
Trong
cuốn Dismantling Utopia: How Information Ended the Soviet Union, Scott
Shane – phóng viên tại Moskva của tờ Baltimore Sun (và hiện giờ
đang làm việc cho tờ Times) – viết rằng: đối với nhà lãnh đạo Liên
Xô, glasnost là “một cái đèn khò có thể thổi sạch lớp sơn cũ đang
bong tróc khỏi xã hội Liên Xô. Nhưng hệ thống cộng sản đã chứng minh
rằng nó là một mồi lửa.”
Người
phương Tây luôn ca ngợi Gorbachev vì lòng dũng cảm của ông khi bắt đầu
canh bạc này – ngay cả khi ông đánh mất cả một đế quốc trong
tiến trình đó – nhưng ông đã làm điều đó vì chịu áp lực. Ý tưởng
rằng việc đề cao sự thật có thể giải phóng Liên Xô khỏi tham nhũng và ốm
yếu không phải là mới. Gorbachev đã lặp lại và sử dụng các lập luận của
một phong trào bất đồng chính kiến mà suốt nhiều thập niên đã
nhấn mạnh rằng sự thật là hình thức phản kháng thiết yếu của họ.
Nếu
Liên Xô là ví dụ lớn nhất của thế kỷ 20 về một chế độ sử dụng tuyên
truyền và thông tin để kiểm soát các công dân của mình – hay 70 năm thao
túng tin giả – thì dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Bolshevik là
một thời điểm quan trọng để đánh giá lại cách mà nó tạo ra một làn
sóng phản kháng mạnh mẽ trong xã hội dân sự “ngầm” tại Moskva và
Leningrad.
Phản
kháng nội bộ thực sự chống lại chế độ Liên Xô bắt đầu nổi lên trong
những năm 1960, vào thời điểm nhiệt độ chính trị trong nước đang chuyển
từ thời kỳ hậu Stalin hừng hực sang lạnh lẽo trở lại. Đàn áp bắt đầu
với phiên tòa xét xử các nhà văn trào phúng Yuli Daniel và Andrei
Sinyavsky vào đầu năm 1966. Khi các đợt phản kháng và các phiên tòa
tiếp diễn sau đó, phe bất đồng chính kiến đã phải đối mặt với một tình
trạng lưỡng nan thú vị: làm thế nào để chống đối hiệu quả nhất trong
bối cảnh thông tin họ có đang ngày càng nhiều. Gần như hàng ngày, họ
đều được nghe chi tiết về những cuộc thẩm vấn, những câu chuyện được
truyền lại về cuộc sống trong các trại lao động, cũng như những cuộc
lùng sục và bắt bớ.
Nhóm
bất đồng chính kiến có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền riêng
của mình, nhấn mạnh cuộc bức hại và biến vốn từ ngữ phong phú của
Liên Xô về những kẻ “côn đồ” và “phần tử phản xã hội” thành những áng
văn dài cay đắng chống lại nhà nước. Nhưng họ đã không làm vậy. Thay
vào đó, họ đã chọn cách truyền đạt một cách phi cảm xúc và trong
trẻo nhất có thể. Họ đã đạt được những gì chúng ta có thể gọi là sự
khách quan.
Nhiều
thế hệ công dân Liên Xô đã tự đào tạo mình để nghĩ về sự thực như một
khái niệm mang tính tương đối. Các bài báo đã được đọc như những câu
chuyện nhằm tôn vinh nhà nước chứ không phải phản ánh thực tế. Và người
ta cũng bị tách biệt thành những con người riêng tư, thường khác
biệt với khuôn mặt và lời nói chốn công cộng của họ.
Do
xã hội Liên Xô được xây dựng dựa trên sự lừa dối kéo dài hàng thập niên
này, điều đáng chú ý và khiến ta yên tâm là việc nói thật và nói rõ
ràng vẫn có quyền lực lớn lao trong số cho các nhà bất đồng chính
kiến vào những năm 1960. Và thực sự là vậy. Hãy nghe Lyudmila
Alexeyeva, một trong những nhà sáng lập của một tạp chí ngầm quan trọng
nhằm tôn vinh sự thật, tờ A Chronicle of Current Events, mô tả về sự
cuốn hút gần giống với tôn giáo:
“Đối
với từng người trong chúng tôi, làm việc cho tờ Chronicle có nghĩa là
cam kết trung thành với sự thật, nó có nghĩa phải gội sạch bản thân khỏi
mọi dơ bẩn của việc ‘suy nghĩ nước đôi’ vốn đã tràn ngập mọi giai đoạn
trong đời sống Liên Xô,” bà viết. “Tác động của Chronicle là không thể
đảo ngược. Mỗi người trong chúng tôi đã trải qua điều này một mình,
nhưng ai cũng biết những người khác cũng đã trải qua cuộc tái sinh đạo
đức này.”
Với
cam kết sẽ buộc Liên Xô phải chịu trách nhiệm giải trình trước luật
pháp quốc gia và các hiệp ước quốc tế, A Chronicle of Current Events đã
đại diện cho sự tái sinh của xã hội dân sự. Đó là một cộng đồng nhỏ, và
là một cộng đồng chỉ tồn tại trên những trang giấy mỏng như vỏ hành tây
của samizdat,[1] những ấn bản bất hợp pháp do các nhóm bất đồng chính
kiến tự xuất bản, nhưng đây là nơi mọi người có thể hành động như một
công dân, chứng kiến và tố cáo các hành vi vi phạm nhân quyền và dân
quyền.
Tờ
Chronicle đã làm việc một cách ngay thẳng. Các số báo được in tại
Moskva và sau đó được truyền tay. Nếu ai đó có một số thông tin muốn
truyền đi, họ có thể viết nó trên một tờ giấy và chuyển nó cho người mà
trước đây cho họ bản sao của tạp chí, người này sau đó sẽ chuyển nó về
lần lượt theo từng mắt xích trong chuỗi. Điểm đầu nguồn có các biên tập
viên như Natalya Gorbanevskaya, “nhà biên soạn” đầu tiên của tạp chí,
theo cách mà họ thích tự gọi mình. Sau này bị bắt giữ bởi cơ quan an
ninh quốc gia, K.G.B., vào năm 1969, Gorbanevskaya đã bị nhốt trong một
viện tâm thần cho đến năm 1972.
Trong
khoảng 65 số báo, xuất bản từ năm 1968 đến năm 1983, Chronicle đã trở
thành một danh mục ghi chép lại những vụ lạm dụng, trấn áp bất đồng
chính kiến bằng một giọng văn trung lập nhất có thể. Đó là một nỗ lực
hết sức cần mẫn để công bố những thông tin mà sẽ chẳng bao giờ xuất hiện
trên các phương tiện truyền thông chính thức của Liên Xô. Trong tạp chí
này, người ta có thể đọc được chi tiết các phiên tòa chính trị được xử
kín và các câu chuyện về những gì mà Chronicle gọi là “cuộc bức hại
không qua xét xử,” hiểu sâu hơn về quá trình bắt bớ của K.G.B., đọc
những tài liệu mật vốn dĩ chỉ dành cho những người cầm quyền, tìm hiểu
về các cuộc bức hại tôn giáo và văn hoá liên tục xảy ra, và cập nhật tin
tức về các tù nhân chính trị ở phương Đông.
Đây
là một nỗ lực tự tạo ra một nguồn tin tức có giá trị và có thể kiểm
chứng được. Chronicle yêu cầu những người đóng góp tin tức phải “thật
cẩn thận và chính xác” với bất kỳ thông tin nào họ đưa ra/truyền đi và
thậm chí còn thường xuyên xuất bản thông tin đính chính những ấn phẩm
trước (đây là việc làm tiên phong mà một số cơ quan truyền thông phương
Tây phải nhiều năm sau mới áp dụng). Theo vị học giả chuyên nghiên cứu
về tình trạng bất đồng chính kiến ở Liên Xô Peter Reddaway, viết vào năm
1972, “mục đích của Chronicle là sự cởi mở, không bí mật, tự do thông
tin và biểu đạt. Tất cả những khái niệm này được gộp vào một từ tiếng
Nga, glasnost.”
Hành
động này trực tiếp chống lại mệnh lệnh mà nhà lãnh đạo Bolshevik,
Vladimir Lenin, ban hành cho báo chí trong thời kỳ tiền Cách mạng Nga
hồi năm 1901. Báo chí khi ấy “không chỉ là một nhà tuyên truyền và kích
động tập thể, mà còn là một nhà tổ chức tập thể” – nói cách khác là một
công cụ để củng cố sức mạnh của nhà nước. Đối với nhà biên soạn
Alexeyeva, Chronicle đại diện cho một cái gì đó rất khác biệt và không
có tiền lệ ở Liên Xô: “Một nguồn thông tin trung thực về các tầng nấc ẩn
giấu trong xã hội chúng ta.”
K.G.B.
đã không nương tay với hành động này, và Gorbanevskaya chỉ là người đầu
tiên trong số rất nhiều biên tập viên bị bắt giữ và bỏ tù. Tuy nhiên,
vào những năm 1970, việc thu thập bằng chứng thực tế này đã trở thành
phương thức hành động chủ yếu của các nhà bất đồng chính kiến, đặc biệt
là trong số những nhân vật nổi bật nhất của phong trào như Andrei
Sakharov, nhà vật lý Liên Xô, người đã được trao giải Nobel Hòa bình năm
1975. Trong một số trường hợp, đó là những người mà công việc đòi hỏi
họ nghiêng về sự thật – nhiều người trong số họ là các nhà khoa học, một
nghề mà chính họ đã lựa chọn trước khi bắt đầu trở thành nhà bất đồng
chính kiến nhằm thoát khỏi bất kỳ lĩnh vực nào có thể bị bóp méo bởi ý
thức hệ cộng sản.
Năm
1975, Liên Xô, với suy nghĩ rằng mình đang thông minh hơn phương Tây,
đã ký Định ước Helsinki. Bản hiệp ước mang lại sự công nhận quốc tế đối
với những lãnh thổ mà nước này giành được sau Thế chiến II, nhưng cũng
đòi hỏi họ phải tuân thủ các quy chuẩn nhân quyền quốc tế. Các nhà bất
đồng chính kiến ở Moskva coi đây là một cơ hội: Họ có thể sử dụng cam
kết này để chống lại bộ máy cộng sản, bằng cách tuyên bố rằng họ có
quyền được công bố mọi vi phạm.
Nhóm
Theo dõi Moskva Helsinki (Moscow Helsinki Watch Group), theo tên gọi
sau này, đã đi theo phong cách của Chronicle, tạo ra một loạt các báo
cáo, tất cả đều được nghiên cứu kỹ lưỡng và đôi khi dài đến hàng trăm
trang. Trong số những báo cáo đầu tiên là cuộc điều tra về việc bức hại
người Tatar ở Crimea và tình trạng bữa ăn nghèo nàn của các tù nhân. Các
báo cáo đã được gửi đến các đại sứ quán phương Tây, cũng như lưu hành
dưới dạng samizdat. Ngay sau đó, các tổ chức giám sát tương tự cũng đã
xuất hiện ở các quốc gia thuộc khối Đông Âu và thậm chí ở Mỹ. Nhóm Theo
dõi Helsinki (Helsinki Watch), một tổ chức có trụ sở tại New York, đã
trở thành tổ chức mà chúng ta biết tới ngày nay dưới tên gọi Tổ chức
Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch).
Liệu
hành trình “ngầm” nhằm tìm kiếm sự thật dựa trên các báo cáo khách
quan, thận trọng này có góp phần thúc đẩy sự tan rã của Liên Xô?
Thật
khó để xác định, vì còn có rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt về kinh tế,
cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối
những năm 1980. Nhưng nó đã ảnh hưởng đến cách Liên Xô tan rã. Không
giống như Trung Quốc, vốn cũng phải đối mặt với một thách thức lớn đối
với quyền lực của đảng cộng sản vào năm 1989, Liên Xô không thể hy vọng
tự cải cách chỉ bằng perestroika (về kinh tế). Việc Gorbachev thông qua
khái niệm glasnost đã thừa nhận rằng cũng cần phải thay đổi xã hội dân
sự nữa.
Các
nhà bất đồng chính kiến đã tạo ra kỳ vọng rằng có thể sẽ có một loại
ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ thể hiện được thực tế mà không bị sàng lọc
qua các mệnh lệnh của Liên Xô. Họ khao khát sự trung thực và minh bạch ở
một quốc gia mà ngay cả tỷ lệ tự tử cũng được coi là bí mật nhà nước.
Samizdat cung cấp một phương tiện để họ đạt được mục đích này.
Và
những sự thật, không ngừng xếp chồng lên nhau, đã trở thành cách mà các
nhà bất đồng chính kiến xây dựng một nước Nga khác, nơi mà họ hy vọng
một ngày nào đó có thể đứng lên và vượt qua tất cả những điều dối trá.
Gal
Beckerman là tác giả của cuốn “When They Come For Us, We’ll Be Gone”
cuốn sách viết về lịch sử của phong trào Do Thái tại Liên Xô, đồng thời
cũng sắp ra mắt một cuốn sách mới về truyền thông xã hội trước khi có
internet.
Gal Beckerman
—
[1]
Đây là từ chỉ các ấn phẩm, báo chí bí mật, hoặc bị cấm, ngoài luồng, do
các (nhóm) cá nhân tự xuất bản mà không được chính quyền cho phép lưu
hành chính thức. Được mượn từ tiếng Nga, từ này gồm hai phần: sam (nghĩa
là tự) và izdat (viết tắt của từ izdatel’stvo, nghĩa là nhà xuất bản).
Nguồn: Gal Beckerman, “How Soviet Dissidents Ended 70 Years of Fake News”, The New York Times, 10/04/2017.
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
(Nghiencuuquocte.org)
Không có nhận xét nào