Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ tiếp
tục gây sức ép lên Việt Nam nếu công ty Rosneft nối lại hoạt động khai
thác dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020, theo nhận định của một chuyên
gia quốc tế về tình hình khu vực, đưa ra nhân dịp cuối năm 2019.
Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu Cảnh sát biển Việt Nam cho thấy tàu hải cảnh của Trung Quốc dang đuổi tàu Việt Nam gần giàn khoan dầu HD 981 ở Biển Đông |
Trong bài phân tích hôm 16/12, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định:
“Năm
2020 sẽ rất quan trọng. Nếu (công ty) Rosneft Vietnam nối lại hoạt động
khai thác tại lô dầu khí của công ty thì (công ty) sẽ có nguy cơ bị các
tàu hải cảnh của Trung Quốc quấy nhiễu”.
Theo giáo sư Carl Thayer: “Trong
năm 2020, chúng ta sẽ có khả năng thấy sự tiếp tục của những nỗ lực từ
phía Trung Quốc để gây sức ép lên các quốc gia ven Biển Đông để ngưng
hoặc chấm dứt các hoạt động của các tàu khai thác dầu của nước ngoài”.
Từ
tháng 5 đến tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải
cảnh, dân binh và khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của hai nước Malaysia và Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác
dầu khí ở hai nước.
Từ
giữa tháng 6, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh vào vùng thềm lục địa
Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động hậu cần phục vụ giàn khoan dầu ở lô 06 -
01 thuộc công ty liên doanh giữa Nga và Việt Nam là Rosneft Vietnam.
Theo báo cáo của Minh Bạch Hàng Hải (một trang chuyên theo dõi về an
ninh biển), tàu hải cảnh của Trung Quốc đã có lúc đi rất sát, gây nguy
hiểm cho tàu hậu cần phục vụ giàn khoan dầu của Việt Nam.
Từ
khoảng đầu tháng 7, Trung Quốc cũng điều hàng chục tàu bao gồm hải
cảnh, dân binh và tàu khảo sát Hải Dương 8 vào khu vực phía bắc Bãi Tư
Chính của Việt Nam. Tàu khảo sát Hải Dương đã có lúc chỉ còn cách bờ
biển Phát Thiết ở miền trung của Việt Nam khoảng 185 km, tức là trong
vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, căn cứ theo
luật quốc tế.
Hôm
24/10, Trung Quốc tuyên bố rút tàu thăm dò Hải Dương 8 khỏi vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam sau khi có thông tin giàn khoan Hakuryu 5
phục vụ lô 06 - 01 đã được rút đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Theo Giáo sư Carl Thayer, trong năm 2020:
“Các tàu khảo sát của Trung Quốc sẽ không xin phép khi vào vùng nước mà
Trung Quốc đòi chủ quyền. Điều này cho thấy là Trung Quốc đòi quyền đưa
tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bất cứ khi nào
Trung Quốc muốn”.
Vào
khi quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh căng thẳng, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã lên tiếng khẳng định Trung Quốc có
chủ quyền đối với toàn bộ vùng nước ở Bãi Tư Chính. Trung Quốc coi vùng
nước này thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mà nước này đòi chủ quyền toàn
bộ.
“Kể
từ tháng 5 năm nay, phía Việt Nam đã đơn phương thực hiện việc khoan
tìm khí đốt ở vùng nước ở Wan'an Tan (Bãi Tư Chính) của Trung Quốc, điều
này đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc. Nó cũng vi
phạm thỏa thuận song phương về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, điều 5 của Tuyên
bố chung của các bên ở Biển Đông (DOC), và các điều khoản liên quan
trong UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc). Việt Nam nên
ngay lập tức dừng các hoạt động vi phạm đơn phương để lập lại sự yên
tĩnh tại vùng nước liên quan”, ông Cảnh Sảng phát biểu trước các phóng viên ở Bắc Kinh hôm 18/9.
Giáo
sư Carl Thayer, trong bài viết của mình hôm 16/9 cũng nhận định, Trung
Quốc sẽ tiếp tục huy động sự có mặt thường xuyên của các tàu chiến, hải
cảnh, dân binh và tàu cá ở khu vực Biển Đông.
“Trung
Quốc sẽ tiếp tục thực hiện những tuần tra khẳng định chủ quyền tại
những vùng nước mà đường đứt khúc 9 đoạn đi qua chồng lên vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển”, giáo sư Carl Thayer viết.
Đường
đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc đòi chủ quyền đến khoảng 90% diện tích
khu vực Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo đang tranh chấp với các nước
là Hoàng Sa và Trường Sa. Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague, trong một
phán quyết vào năm 2016, đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này.
Tuy nhiên, Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của tòa.
Không
những thế, Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định, trong năm 2020, Trung
Quốc sẽ vẫn tiếp tục “quân sự hóa các đảo nhân tạo theo từng bước một,
tiến hành những cải tiến về chất lượng đối với các hệ thống vũ khí (trên
các đảo)”.
Việc
xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể
triển khai tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân
quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một
tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. - Chuyên
gia Greg Poling
Từ
khoảng cuối năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành xây lấp các đảo nhân tạo ở
Biển Đông và triển khai vũ khí ra các đảo này, bất chấp phản đối của
quốc tế.
Theo
đánh giá của chuyên gia Greg Poling, Giám đốc Sáng Kiến Minh Bạch Hàng
Hải (AMTI), việc xây lấp các đảo nhân tạo đã giúp Trung Quốc gây sức ép
lên các nước khác và duy trì sự hiện diện của các tàu nước này tại các
vùng biển xa.
“Việc
xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể
triển khai tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân
quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một
tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. Họ có thể
liên tục gây sách nhiễu theo cách mà họ đã không thể làm được vào năm
2015.”
Trong
năm 2020, Trung Quốc được cho là cũng sẽ thúc đẩy việc hoàn tất các
vòng tham vấn về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Bắc
Kinh trước đó đã đưa ra một khung thời gian để hoàn thành các vòng tham
vấn này vào năm 2021.
Theo đánh giá của Giáo sư Carl Thayer, việc Bắc Kinh hối thúc các nước ASEAN hoàn tất các vòng tham vấn COC là khiến “các
nước ASEAN sẽ có ít thời gian để mặc cả với Trung Quốc về các vấn đề
còn tranh cãi như phạm vi địa lý, liệu COC có tính ràng buộc về pháp lý
hay không, các tranh chấp sẽ được giải quyết thế nào, và việc giải quyết
các tranh chấp sẽ được thực hiện ra sao, và vai trò của các bên thứ
ba”.
Trong đề nghị về COC, Bắc Kinh cũng muốn loại bỏ việc tham gia khai thác dầu khí của các công ty ngoài khu vực tại Biển Đông.
Năm
2020, Việt Nam sẽ là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Đây được cho là cơ
hội nhưng cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Năm 2010, khi là Chủ
tịch luân phiên của ASEAN, Hà Nội đã thành công trong việc khiến Mỹ lên
tiếng khẳng định quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông ngay tại diễn đàn ASEAN.
Lần này, theo Giáo sư Carl Thayer, Hà Nội có cơ hội tham vấn với các
thành viên ASEAN, định hình nghị trình và kết quả các cuộc gặp của ASEAN
và đưa ra tuyên bố của quốc gia chủ tịch. Mặc dù vậy thách thức cho
Việt Nam là nguyên tắc đồng thuận của ASEAN trong mọi vấn đề. Đây cũng
cũng chính là nguyên tắc khiến ASEAN có lúc đã không thể đưa ra được các
tuyên bố chung, nhất là khi nói đến các hành động lấn lướt của Trung
Quốc ở Biển Đông.
(RFA)
Không có nhận xét nào