Tác giả David Hutt trên Asia Times
ngày 01/11/2019 đã phân tích về mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa
Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á.
Biểu tình ở Saigon, Việt Nam, ngày 10/06/2018 chống dự luật thành lập các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, bị nghi ngờ để cho Trung Quốc thuê. |
Bất
chấp bao nhiêu tiền bạc đã đổ ra, rất nhiều thời gian và cố gắng để đầu
tư vào khu vực Đông Nam Á, nhưng hầu hết những chương trình lớn của Bắc
Kinh tại các quốc gia láng giềng đều diễn ra không như mong muốn. Tại
hội nghị thượng đỉnh ASEAN thứ 35 tại Bangkok Thái Lan lần này, một dịp
mà tổng thống Mỹ Donald Trump đã chọn cách vắng mặt rất kém ngoại giao,
Trung Quốc vẫn khó lòng chiếm được thế thượng phong.
Việt Nam : Dự luật đặc khu bị xếp xó vì dư luận chống đối
Những
nghi ngại về mục đích thực sự của Trung Quốc – kể cả Sáng kiến Vành đai
Con đường (BRI) có ngân sách lên đến 1.000 tỉ đô la – đang nổi lên
trong khu vực, cùng với những cảnh báo do Hoa Kỳ đưa ra về chính sách «
ngoại giao bẫy nợ » của Bắc Kinh.
Không
có ở đâu mà những lợi ích thương mại Trung Quốc lại bị công khai cự
tuyệt như tại nước láng giềng Việt Nam. Vào đầu năm 2018, nhiều cuộc
biểu tình đã diễn ra trên toàn quốc sau khi đảng Cộng Sản cầm quyền bắt
đầu thảo luận về một luật mới, cho phép thành lập các đặc khu kinh tế
(SEZ) trong đó các nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất đến 99 năm.
Nhiều
người Việt nghĩ rằng dự luật đặc khu này nhằm bật đèn xanh cho các công
ty Trung Quốc vơ vét đất đai của Việt Nam. Cho dù hàng trăm người biểu
tình bị bắt, chính quyền đã có một quyết định chưa từng thấy là lắng
nghe dư luận, hoãn lại vô thời hạn, và nay thì đạo luật này không còn
được nhắc đến.
Tình
cảm chống Trung Quốc có thể cảm nhận rất rõ tại Việt Nam trong nhiều
thập niên. Không chỉ do Trung Quốc chiếm đóng lãnh thổ của Việt Nam, mà
còn vì những xung đột trên Biển Đông, nơi mà Hà Nội là thủ đô cuối cùng
thực sự chống đối sự bành trướng trên biển của Bắc Kinh.
Sihanoukville bị Hán hóa, Philippines lo mất biển
Nhưng
Việt Nam không phải là nơi duy nhất mà người dân địa phương tỏ ra giận
dữ đối với các đầu tư của Trung Quốc đã làm thay đổi đất nước họ. Tại
Cam Bốt, ngày càng có những phản ứng dữ dội trước việc Trung Quốc đầu tư
ồ ạt, đặc biệt là tại Sihanoukville.
Thành
phố biển xinh đẹp này được cho là đã trở thành một « tỉnh của Trung
Quốc ». Sihanoukville đã trở thành điểm đến trung tâm của khách du lịch
và những người có máu đỏ đen từ Hoa lục. Giá đất tăng vọt do người Trung
Quốc đổ tiền vào địa ốc, khiến thị trường nhà đất trở nên ngoài tầm tay
với của nhiều người dân bản xứ.
Trong
khi đó ở Philippines, công chúng và một bộ phận giới tinh hoa ngày càng
hoài nghi, phải chăng tổng thống Rodrigo Duterte đã tính toán sai lầm
khi xích lại gần Bắc Kinh, giảm thiểu tầm quan trọng của tranh chấp chủ
quyền Biển Đông. Một cuộc điều tra mới đây của Social Weather Stations
cho thấy có đến 93% người Philippines muốn chính phủ Duterte thu hồi lại
những đảo và thực thể tại vùng biển mà Manila đòi hỏi chủ quyền nhưng
đang bị Trung Quốc kiểm soát, kể cả bãi cạn Scarborough.
Giáo
sư Richard Heydarian ở Manila nhận xét : « Chiến lược lôi kéo, mua
chuộc giới tinh hoa địa phương thông qua các thỏa thuận kinh tế lớn
trước đây thuận buồm xuôi gió, nay đã khó khăn hơn. Nó càng làm xa lánh
lớp người năng động, có hiểu biết về chính trị ở các quốc gia sở tại ».
« Thực dân mới Trung Quốc » ?
Tại
Malaysia, liên minh Harapan và thủ lãnh là ông Mahathir Mohamad chiến
thắng trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5/2018 nhờ chủ trương hạn chế đầu
tư Trung Quốc, khiến liên minh cầm quyền UMNO lần đầu tiên trong lịch sử
phải rơi đài. Chính quyền thương lượng lại các hợp đồng với Trung Quốc,
trong khi ông Mahathir công khai lên án Bắc Kinh là « một phiên bản mới
của chủ nghĩa thực dân » trong khu vực.
Ở
Lào, quốc gia nhiều đồi núi lâu nay là vùng đệm giữa Trung Quốc và Đông
Nam Á, đã xảy ra những vụ tấn công vào người Trung Quốc, trong đó nhiều
người bị các nhóm vũ trang sát hại trong những năm gần đây. Tình cảm
thù ghét cũng đang lớn dần đối với chính sách « ngoại giao bẫy nợ » - vì
Lào là một trong những nước trong khu vực nợ nần Trung Quốc nhiều nhất.
Chủ yếu là do một dự án đường sắt 6 tỉ đô la do Bắc Kinh tài trợ và xây
dựng, mà nhiều người cho là tốn kém nhưng không hiệu quả.
Ông
Heydarian viết : « Thay vì hướng về một Trung Quốc bá chủ, người ta lại
chứng kiến khuynh hướng tái khẳng định quyền tự chủ và phẩm cách tại
các nước láng giềng của Bắc Kinh ».
Tất
nhiên tình cảm chống Trung Quốc tăng lên là điều tốt lành đối với chính
quyền Donald Trump, vẫn đang gia tăng đối đầu với Bắc Kinh, mà một số
nhà phân tích gọi là « cuộc chiến tranh lạnh mới ». Chiến lược an ninh
quốc gia của Nhà Trắng công bố vào tháng 12/2017 mô tả Trung Quốc là «
cường quốc xét lại », nêu ra một « cuộc cạnh tranh đại cường mới » giữa
Hoa Kỳ và Trung Quốc, kể cả tại Đông Nam Á.
Hình ảnh xấu xí của Bắc Kinh tại Đông Nam Á
Nhưng
mối ngờ vực về mưu đồ của Bắc Kinh trong khu vực còn đi xa hơn quyền
lực chính trị đại cường. Các dự án đầu tư, kể cả những dự án trong khuôn
khổ BRI thường thiếu minh bạch, với những chiến thuật ám muội, thông
đồng với các quan chức địa phương để được giao đất.
Quyền
sở hữu đất đai và vấn đề môi trường đang trở thành mối quan ngại trên
khắp Đông Nam Á, và trong nhiều trường hợp, đầu tư của Trung Quốc đã làm
vấn đề thêm trầm trọng. Ngày càng nhiều những chỉ trích cho rằng đầu tư
Trung Quốc chỉ mang lại lợi ích ngắn hạn cho người dân địa phương.
Trên
toàn Đông Nam Á đều có những lời than phiền rằng các dự án Trung Quốc
chủ yếu sử dụng người Hoa thay vì lao động địa phương. Điều này đặt ra
câu hỏi, liệu BRI có thực sự nhằm nâng cao mức sống cho Đông Nam Á, hay
chỉ nhằm tăng cường sự kiểm soát về kinh tế và chính trị của Bắc Kinh
tại khu vực này ?
Một
nghiên cứu của trung tâm ASEAN thuộc ISEAS-Yusof Ishak Institut tiết lộ
45,5% người được hỏi nghĩ rằng « Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc
xét lại với ý đồ biến Đông Nam Á thành khu vực nằm trong tầm ảnh hưởng
của mình ». Trong khi đó chưa đầy 1/10 coi Trung Quốc là « cường quốc vô
hại và tử tế ».
Các
tác giả nhận định kết quả này là lời cảnh tỉnh cho Trung Quốc, cần phải
đánh bóng lại hình ảnh tiêu cực ở Đông Nam Á cho dù Bắc Kinh nhiều lần
khẳng định « trỗi dậy ôn hòa ». Cũng theo cuộc điều tra trên, gần phân
nửa số người được thăm dò (47%) cho rằng BRI đẩy các thành viên ASEAN đi
vào quỹ đạo Trung Quốc.
Phó
giáo sư Lý Minh Giang (Li Mingjiang), điều phối viên chương trình Trung
Quốc của S. Rajaratnam School of International Studies ở Singapore, và
một số nhà nghiên cứu Trung Quốc như Thì Ân Hoằng (Shi Yinhong) đều cho
rằng Bắc Kinh trước những thành tựu to lớn đạt được, đã quá vội vã nhảy
vào mặt trận chiến lược. Ngay cả người con của Đặng Tiểu Bình là Đặng
Phác Phương (Deng Pufang) trong bài phát biểu được phổ biến rộng rãi
tháng 11/2018 cũng cho rằng Trung Quốc « nên tỉnh táo và ý thức được vị
trí của mình ».
Không « tri kỷ tri bỉ », sao có thể bách chiến bách thắng ?
Nhưng
trong lúc Bắc Kinh đang vận dụng thế mạnh từ tài chính, quân sự cho đến
nhân lực cho chính sách ngoại giao trong khu vực, các nhà phê bình thấy
rằng vẫn còn thiếu vắng sự đồng cảm. Các quan chức Trung Quốc dường như
không chịu hiểu rằng chính trị và kinh doanh được tiến hành theo những
cách rất khác nhau tại từng quốc gia Đông Nam Á.
Chính
quyền Trung Quốc hầu như không thể hiểu vì sao chính phủ các nước khác
lại không thể kiểm soát báo chí và khu vực tư nhân theo cùng một kiểu
với Bắc Kinh. Tại sao người dân địa phương không chịu mở rộng vòng tay
đón nhận đầu tư Trung Quốc, và tại sao Trung Quốc lại bị coi là kẻ xâm
lược ? Tình trạng này một phần là do đảng Cộng Sản Trung Quốc độc quyền
chính sách đối ngoại.
Tuần
báo The Economist trong một bài báo mới đây khẳng định « đảng Cộng Sản
Trung Quốc không tin rằng quyền lực mềm hầu hết là từ các cá nhân, khu
vực tư nhân và xã hội dân sự ». Cũng cần phải đặt câu hỏi, liệu ông Tập
Cận Bình có ảnh hưởng quá nhiều lên đối ngoại hay không.
Theo
New York Times, « quyền lực mạnh mẽ của ông Tập có thể gây trở ngại cho
việc hoạch định chính sách một cách hiệu quả, vì các quan chức không
dám báo cho ông những tin xấu, ngồi im để mặc ông Tập toàn quyền quyết
định, và thực hiện các mệnh lệnh của Tập Cận Bình một cách cứng nhắc ».
Hệ
quả thứ hai liên quan đến lịch sử. Bắc Kinh có xu hướng tiến hành quan
hệ đối ngoại thông qua lăng kính diễn dịch lịch sử của chính mình, mắt
lấp tai ngơ trước những quan điểm khác biệt của các nước trong khu vực,
đặc biệt là tại Biển Đông đang dậy sóng.
Thế
nên Bắc Kinh thường xuyên lớn tiếng cho rằng những ý kiến phản đối
trước hành động của Trung Quốc trong khu vực đều là do thiếu thông tin,
là luận điệu tuyên truyền của Mỹ hoặc chủ nghĩa tân thuộc địa. Và khi
Trung Quốc lợi dụng thượng đỉnh ASEAN như diễn đàn để lặp lại các luận
điệu đơn phương này, thì họ không hề gây ngạc nhiên cho các nhà lãnh đạo
có mặt tại đây.
Thụy My
(RFI)
Không có nhận xét nào