Tôi
gặp các bạn trong một quán nhỏ tại Đài Loan. Quán không mang tên là
quán chửi nhưng rộn ràng cả quán là những tiếng chửi thề. Giọng chửi
Long An, Cần Thơ, Rạch Giá của miền Tây hiền hoà sang đến Hà Tĩnh, Nghệ
An, Quảng Bình khô cằn sỏi đá. Và toàn là giọng nữ. Họ là những cô dâu, ô
sin, lao động chính thức, lao động chui, lao động bằng tay chân, lao
động bằng thể xác. Những thiếu nữ 16 cho đến ngoài 30 đã làm nên một
tầng lớp người Việt Nam lạ lẫm ở xứ người: những nô lệ của thời đại mới.
Năm 2017, trên 134.000 món hàng người được xuất khẩu,
vượt kế hoạch 28,3%. Năm 2018, 142.000, vượt 30% so với kế hoạch. 6
tháng đầu năm 2019, gần 67.000, đạt 55,82% kế hoạch nguyên năm. Tính
chung từ năm 2006 đến nay, đảng và nhà nước CSVN đã xuất khẩu hơn 1
triệu món hàng bằng xương bằng thịt được dán nhãn “lao động made in VN”.
Đây là những con số chính thức do Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh & Xã hội Nguyễn Thị Hà báo cáo tại Hội nghị truyền thông về xuất khẩu lao động vào đầu tháng 10/2019.
Hơn 1 triệu người. Mỗi người đóng ít nhất USD 5000 thì chính sách “Xuất khẩu lao động là thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương” đem về cho công ty buôn dân có trụ sở chính ở Ba Đình là 5 tỷ đô la. Chừng đó người sau đó gửi tiền về nước, con số cũng lên đến cả hàng chục tỷ đô trong hơn 1 thập niên qua.
Trong con số 1 triệu người đó không có những người đi chui, những xác người bị chết trên xe hàng, xe tải, chết bờ chết bụi trong rừng, chết không còn nội tạng bên Tàu, chết những vẫn còn thở trong các ổ chứa mà không ai biết, không bao giờ có được con số thống kê chính thức.
Tổng cộng là bao nhiêu người? 1 triệu hay 2 triệu hay…
Tổng cộng là bao nhiêu tiền? 10 tỷ, 100 tỷ hay…
Chỉ biết là rất nhiều, rất vĩ đại, rất hoành tráng để xuất khẩu con người phải là đại chính sách, là nhiệm vụ chính trị của chế độ.
Những người bạn trong quán “chửi” ở Đài có người nằm trong con số 1 triệu của bà thứ trưởng Bộ LĐTB&XH. Có người không. Nếu bạn chỉ gặp họ trong một khoảnh khắc, bạn sẽ lắc đầu ngao ngán và gắn cho họ là phường hư đốn, thô tục đến cực kỳ.
Bạn cũng có thể “gặp” những người khác trên các bản tin, bài viết về những người Việt ăn cắp, đĩ điếm, buôn lậu, hành nghề phi pháp ở xứ người và xem đó là nhục quốc thể.
Những chuyện đó, những con người đó là có thật.
Nhưng không phải tất cả 1 triệu người. Tôi không thể nói được có bao nhiêu con sâu trong nồi canh Việt Nam tha phương cầu thực ở xứ người vì tôi không là nhà thống kê. Từ những người được gặp và qua họ, tôi biết rất nhiều và rất nhiều những con người Việt Nam chỉ biết đem mồ hôi và nước mắt của mình đổ ra ở xứ người, ngày đêm âm thầm chăm chỉ cày bừa, cắn răng chịu đựng để nuôi dưỡng ước mơ của mình và cho gia đình họ còn ở lại bên kia “thiên đàng cộng sản”.
Tối về trong căn nhà trọ, không còn là những con số, không còn là những bản tin. Trước mặt tôi là những con người. Các bạn nhỏ đã cởi bỏ mặt nạ ban ngày và mở lòng tâm sự. Trước mặt tôi là cô gái Long An hiền như lúa, người phụ nữ Nghệ An chân chất đồng ruộng và những con người Việt Nam nghèo xơ xát. Nhưng có một thứ thì họ rất giàu: Ước Mơ. Tôi không tìm thấy ở họ hình ảnh đứa cháu ngoan bác Hồ như một bạn thú nhận, một đoàn viên đoàn thanh niên Hồ Chí Minh một thời hung hăng khắp trường khắp xóm, hay một tín đồ Công giáo thuần thành bây giờ chửi thề ngọt như mía. Ở họ tôi chỉ thấy một điều tha thiết duy nhất: Ước Mơ.
Để đạt được ước mơ, mỗi người bạn nhỏ đã đánh mất rất nhiều thứ. Gia đình, người yêu, phẩm giá và ngay cả trinh tiết. Cuộc đời có thể lên án họ nhưng họ chỉ phải bị mất phẩm giá của mình chứ không đi chà đạp nhân phẩm người khác, họ bị cướp đi trinh tiết của mình nhưng không hề đi cưỡng đoạt trinh tiết của người khác. Họ mất rất nhiều chỉ để mong tìm được điểm đến sau cùng của ước mơ.
Ước mơ của họ, một con người của họ gom lại làm nên con số 1 triệu món hàng người xuất khẩu của chế độ.
Trước mặt tôi là một cô gái mới 17 tuổi. Trên giấy tờ em phải khai là 18 khi em chỉ tròn 16 lúc còn ở Việt Nam để “được” làm “cô dâu Đài Loan”. Mọi câu hỏi như tại sao em ra đi, những phán đoán vì sao em ra nông nổi này, sao bây giờ em đi làm gái bán thân… đều vô nghĩa trước dáng người bó gối, co rút và khuôn mặt đẫm nước mắt của em.
Trước mặt tôi là một người Việt Nam. Không! Hơn thế nữa. Trước mặt tôi phảng phất hình ảnh của con gái mình – lúc ấy con gái tôi mới 13. Tôi nhớ đến giây phút con gái cất tiếng chào đời và nghĩ đến cha mẹ của em. Chắc chắn cha mẹ em khi ôm con vào lòng không bao giờ nghĩ có ngày con gái mình 16 tuổi phải bôn ba xứ người lấy chồng già Đài Loan, 17 tuổi bỏ trốn và đi làm gái. Và tôi, nếu vì định mệnh vẫn sống tại một nơi nào đó ở Tây Ninh, Rạch Giá hay Nghệ An, Hà Tĩnh thì có gì bảo đảm đứa con gái thương yêu của mình sẽ không cùng số phận với em nhỏ này, với những em nhỏ mà tôi đã gặp ở Chung Li, Svay Pak, Siem Reap…? Có gì bảo đảm rằng con gái của tôi sẽ không ban ngày chửi nát cuộc đời và ban đêm khóc nát lòng mình?
Từ người con gái 17 tuổi và buổi tối nhiều nước mắt ấy, tôi đã tự nhận ra rằng những điều về lý tưởng, về lòng ái quốc, về lịch sử ngàn năm, về con đường yêu nước trong tôi từ trước chợt trở nên mơ hồ và dường như vô nghĩa. Từ những con-người-có-thật này, từ cô gái ban ngày chửi thề ban đêm khóc thầm này, tôi nhận ra và biết rõ mình sẽ làm gì trong nửa đời sau. Họ là những người mà tôi phải cám ơn. Cuộc đời cay đắng và nhiều khi còn bị phê phán của họ lại chính là nguồn cơn và động lực giúp tôi biết sống một cuộc đời có ý nghĩa.
Vũ Đông Hà
Thân phận con người: Con Gái VN bôn ba xứ người lấy chồng già Đài Loan |
Đây là những con số chính thức do Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh & Xã hội Nguyễn Thị Hà báo cáo tại Hội nghị truyền thông về xuất khẩu lao động vào đầu tháng 10/2019.
Hơn 1 triệu người. Mỗi người đóng ít nhất USD 5000 thì chính sách “Xuất khẩu lao động là thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương” đem về cho công ty buôn dân có trụ sở chính ở Ba Đình là 5 tỷ đô la. Chừng đó người sau đó gửi tiền về nước, con số cũng lên đến cả hàng chục tỷ đô trong hơn 1 thập niên qua.
Trong con số 1 triệu người đó không có những người đi chui, những xác người bị chết trên xe hàng, xe tải, chết bờ chết bụi trong rừng, chết không còn nội tạng bên Tàu, chết những vẫn còn thở trong các ổ chứa mà không ai biết, không bao giờ có được con số thống kê chính thức.
Tổng cộng là bao nhiêu người? 1 triệu hay 2 triệu hay…
Tổng cộng là bao nhiêu tiền? 10 tỷ, 100 tỷ hay…
Chỉ biết là rất nhiều, rất vĩ đại, rất hoành tráng để xuất khẩu con người phải là đại chính sách, là nhiệm vụ chính trị của chế độ.
Những người bạn trong quán “chửi” ở Đài có người nằm trong con số 1 triệu của bà thứ trưởng Bộ LĐTB&XH. Có người không. Nếu bạn chỉ gặp họ trong một khoảnh khắc, bạn sẽ lắc đầu ngao ngán và gắn cho họ là phường hư đốn, thô tục đến cực kỳ.
Bạn cũng có thể “gặp” những người khác trên các bản tin, bài viết về những người Việt ăn cắp, đĩ điếm, buôn lậu, hành nghề phi pháp ở xứ người và xem đó là nhục quốc thể.
Những chuyện đó, những con người đó là có thật.
Nhưng không phải tất cả 1 triệu người. Tôi không thể nói được có bao nhiêu con sâu trong nồi canh Việt Nam tha phương cầu thực ở xứ người vì tôi không là nhà thống kê. Từ những người được gặp và qua họ, tôi biết rất nhiều và rất nhiều những con người Việt Nam chỉ biết đem mồ hôi và nước mắt của mình đổ ra ở xứ người, ngày đêm âm thầm chăm chỉ cày bừa, cắn răng chịu đựng để nuôi dưỡng ước mơ của mình và cho gia đình họ còn ở lại bên kia “thiên đàng cộng sản”.
Tối về trong căn nhà trọ, không còn là những con số, không còn là những bản tin. Trước mặt tôi là những con người. Các bạn nhỏ đã cởi bỏ mặt nạ ban ngày và mở lòng tâm sự. Trước mặt tôi là cô gái Long An hiền như lúa, người phụ nữ Nghệ An chân chất đồng ruộng và những con người Việt Nam nghèo xơ xát. Nhưng có một thứ thì họ rất giàu: Ước Mơ. Tôi không tìm thấy ở họ hình ảnh đứa cháu ngoan bác Hồ như một bạn thú nhận, một đoàn viên đoàn thanh niên Hồ Chí Minh một thời hung hăng khắp trường khắp xóm, hay một tín đồ Công giáo thuần thành bây giờ chửi thề ngọt như mía. Ở họ tôi chỉ thấy một điều tha thiết duy nhất: Ước Mơ.
Để đạt được ước mơ, mỗi người bạn nhỏ đã đánh mất rất nhiều thứ. Gia đình, người yêu, phẩm giá và ngay cả trinh tiết. Cuộc đời có thể lên án họ nhưng họ chỉ phải bị mất phẩm giá của mình chứ không đi chà đạp nhân phẩm người khác, họ bị cướp đi trinh tiết của mình nhưng không hề đi cưỡng đoạt trinh tiết của người khác. Họ mất rất nhiều chỉ để mong tìm được điểm đến sau cùng của ước mơ.
Ước mơ của họ, một con người của họ gom lại làm nên con số 1 triệu món hàng người xuất khẩu của chế độ.
Trước mặt tôi là một cô gái mới 17 tuổi. Trên giấy tờ em phải khai là 18 khi em chỉ tròn 16 lúc còn ở Việt Nam để “được” làm “cô dâu Đài Loan”. Mọi câu hỏi như tại sao em ra đi, những phán đoán vì sao em ra nông nổi này, sao bây giờ em đi làm gái bán thân… đều vô nghĩa trước dáng người bó gối, co rút và khuôn mặt đẫm nước mắt của em.
Trước mặt tôi là một người Việt Nam. Không! Hơn thế nữa. Trước mặt tôi phảng phất hình ảnh của con gái mình – lúc ấy con gái tôi mới 13. Tôi nhớ đến giây phút con gái cất tiếng chào đời và nghĩ đến cha mẹ của em. Chắc chắn cha mẹ em khi ôm con vào lòng không bao giờ nghĩ có ngày con gái mình 16 tuổi phải bôn ba xứ người lấy chồng già Đài Loan, 17 tuổi bỏ trốn và đi làm gái. Và tôi, nếu vì định mệnh vẫn sống tại một nơi nào đó ở Tây Ninh, Rạch Giá hay Nghệ An, Hà Tĩnh thì có gì bảo đảm đứa con gái thương yêu của mình sẽ không cùng số phận với em nhỏ này, với những em nhỏ mà tôi đã gặp ở Chung Li, Svay Pak, Siem Reap…? Có gì bảo đảm rằng con gái của tôi sẽ không ban ngày chửi nát cuộc đời và ban đêm khóc nát lòng mình?
Từ người con gái 17 tuổi và buổi tối nhiều nước mắt ấy, tôi đã tự nhận ra rằng những điều về lý tưởng, về lòng ái quốc, về lịch sử ngàn năm, về con đường yêu nước trong tôi từ trước chợt trở nên mơ hồ và dường như vô nghĩa. Từ những con-người-có-thật này, từ cô gái ban ngày chửi thề ban đêm khóc thầm này, tôi nhận ra và biết rõ mình sẽ làm gì trong nửa đời sau. Họ là những người mà tôi phải cám ơn. Cuộc đời cay đắng và nhiều khi còn bị phê phán của họ lại chính là nguồn cơn và động lực giúp tôi biết sống một cuộc đời có ý nghĩa.
Vũ Đông Hà
(Dân Làm Báo)
Không có nhận xét nào