Tranh trên trang Le Petit Journal vẽ Vua Thành Thái (mặc hoàng bào) và Toàn quyền Paul Doumer duyệt binh ở Hà Nội năm 1902.
Hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn, Khải Định trong cuốn 'The Peoples of All Nations, Their Life Today and the Story of Their Past, tập I' do JA Hammerton biên soạn và xuất bản ở London năm 1922 |
Trên
Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để
ghi công và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc
truyền bá chữ Quốc ngữ.
"Các
vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì
quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng
có thể làm được sau này."
Ý
kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và
nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa
bao giờ trở thành chữ quốc ngữ của họ.
Cũng
theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản
tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.
Xem bài:Những người giúp chữ Quốc ngữ 'làm nên'củaNguyễn Giang
Và
rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá quốc ngữ là của trí thức miền Nam
và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông
Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Nhưng
tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh,
đều là thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm
chữ quốc ngữ.
Ở đây cần xem cả đến công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc.
Sắc lệnh của Vua Thành Thái
Theo
sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà
cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc ngữ có thể lan ra sâu rộng
xuống đến tận làng quê.
Các
thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền
Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ
của các nhà truyền giáo
Qua
nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam Kelley
kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.
Trong
bài "Emperor Thành Thái's Educational Revolution", Liam Kelley (2016)
đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong Đại Nam Hội
Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau:
"Hoàng
đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18
của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một
trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).
Với
những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo
khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần.
Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa
bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
…Trong
khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy
những người theo chương trình học 'Nam âm' nhằm giới thiệu cho họ những
thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong
tục tập quán...
Thêm
vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm
nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử
cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi khoa
cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những
gì mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…"
Sắc
lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ
là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu
phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là
tư tưởng.
Vừa thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi.
Sinh năm 1879, vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, khi mới 10 tuổi, và đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị.
Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.
Vua là người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, phong cách của người theo tân học.
Vua
thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng
nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất
nước.
Sắc
lệnh cho dạy Quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906)
và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ
quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo tân học.
Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân.
Đến
khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu
nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp
nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế.
Tất cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp
và triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi
là Giặc đồng bào, sau được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây
là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn
biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân
học nhưng chống Pháp.
Như
vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương
pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức,
có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ ràng.
Cuộc
đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và
tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.
Các vị vua tiếp tục cải cách
Năm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử.
Thượng
thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài,
bỏ đi kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền
giáo dục "không học vì bằng cấp" mà phải học lấy thực tài để ra giúp
dân, giúp nước.
Đáng tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục.
Theo
Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh
phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.
Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học.
Năm 1919 là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt Nam.
Vai trò của các ông giáo trường làng
Bên
cạnh các trường công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống
trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.
Mỗi
làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà
người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong
làng theo học.
Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.
Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của triều đình.
Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền.
Các
thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền
Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ
của các nhà truyền giáo.
Với
họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc
ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược,
biết đọc chẳng ích lợi gì.
Nhưng
khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính
các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học
sinh.
Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ.
Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.
Những
bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa
thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự
biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng.
Bộ
sách giáo khoa 'Việt Nam Sử lược' được học giả Trần Trọng Kim soạn để
dạy các lớp cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc
ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ.
Thời gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ
đó ta thấy căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của
học sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo Đại là người Tây Học
Tốt
nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay
ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền
quốc gia.
Ngày
10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân
chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách
hành chính, giáo dục và tư pháp.
Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ…
Bộ
Học được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ
nhiệm báo Nam Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các
cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách
về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở.
Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công.
Nhờ
thế sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ
trong vòng 5 tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc
cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.
Bộ
trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và
kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46
tại miền Bắc và miền Trung.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung học.
Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời Thành Thái
Học
tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành
Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc,
quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung Hoa.
Thay
đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước
không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.
Khái niệm 'quốc gia' bắt đầu được sử dụng đối nghịch với 'thuộc địa', 'chư hầu'.
Mặc
dù không có quyền lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành
công cải cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát
khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình.
Vì
thế, theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là
cải cách tủn mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi một ý
thức hệ duy nhất, vừa thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho
Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Australia.
(BBC)
Không có nhận xét nào