Vì sao Liên Xô sụp đổ? Trong muôn vạn
lý do mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn còn chưa hoàn toàn thống
nhất, một bộ phận người dân yêu mến Liên Xô luôn cho rằng Mikhail
Gorbachev chính là kẻ tội đồ làm cho liên bang này sụp đổ. Họ khẳng định
Liên Xô sẽ tiếp tục tồn tại và hùng cường nếu Gorbachev không xuất
hiện.
Tổng bí thư Mikhail Gorbachev của Liên Xô. Ảnh: Getty Images. |
Trong
một cuộc điều tra về quan điểm của người dân Nga đối với các lãnh đạo
từng nắm quyền trong lịch sử do Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ) thực hiện,
Gorbachev bằng cách nào đó ở vị trí thấp hơn cả vị độc tài quân sự
Stalin khét tiếng, người từng phủ bóng Liên Xô với nạn thanh trừng và
đàn áp. Một bộ phận không nhỏ khác đi xa đến mức gọi vết bớt (birthmark)
trên trán của Gorbachev là dấu hiệu của Quỷ Satan (The mark of Satan).
Tuy
nhiên, một số tài liệu khác thì lại ghi nhận rằng Liên Xô mà Gorbachev
kế thừa thật ra đã rệu rã và có những dấu hiệu kiệt sức trong cuộc đua
kinh tế với phương Tây. Liên Xô cần phải cải cách, và đó là lý do mà
Gorbachev trở thành người quyền lực nhất khối xã hội chủ nghĩa.
Cách
nhìn nhận sự kiện lịch sử nói chung và vai trò của Gorbachev nói riêng
phụ thuộc vào quan điểm của mỗi người. Bài viết này không nhằm định
hướng hay áp đặt người đọc vào một lề thói nhất định. Mục tiêu của bài
viết là cung cấp thông tin đúng – đủ, có căn cứ – nền tảng không thể
thiếu cho mọi đánh giá.
Tính hai mặt của lịch sử kinh tế Liên Xô
Ngày
31 tháng 12 năm 1991, Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết chính
thức chấm dứt tồn tại với tư cách một thực thể pháp lý quốc tế. Sự sụp
đổ của nhà nước hùng mạnh kéo dài hơn nửa thế kỷ này không hề được dự
đoán trước, và tin tức về nó khiến người Liên Xô, các nhà lãnh đạo và
giới quan sát quốc tế phải bất ngờ.
Vậy nên không có gì khó hiểu khi những thành tựu của Liên Xô luôn khiến những người còn luyến tiếc đôi khi vẫn mộng mơ về nó.
Ngay
từ khi vừa thành lập cho đến ngày tan rã, nền kinh tế Liên Xô luôn phát
triển tịnh tiến tăng dần đều (và chỉ bị gián đoạn trong Đệ nhị Thế
chiến). Đời sống người dân tuy không tăng trưởng ở tốc độ choáng ngợp và
có của cải dư thừa như ở phương Tây, nhưng các nhà khoa học đồng tình
rằng nó luôn theo chiều hướng đi lên. Sự can thiệp toàn diện của nhà
nước vào mọi vấn đề xã hội đồng nghĩa với việc chính phủ Liên Xô luôn
duy trì chế độ giáo dục miễn phí, hệ thống y tế toàn dân. Đóng góp khoa
học và công nghệ của Liên Xô cho nhân loại luôn được Đông – Tây thừa
nhận. Từ cuộc chạy đua lên vũ trụ cho đến cờ vua và khúc côn cầu, Liên
bang Xô Viết luôn khẳng định mình là đại diện duy nhất có khả năng đối
trọng với “nửa bán cầu của Hoa Kỳ” suốt hàng chục thập niên.
Tuy
nhiên, trong cùng lúc đó, nên thừa nhận một sự thật rằng mô hình Liên
Xô có hàng loạt những vấn đề hệ thống vô cùng nghiêm trọng. Từ thói tham
nhũng và thân hữu, giới lãnh đạo bảo thủ thiên cực
(ultra-conservative), cho đến giai đoạn kinh tế phát triển chững lại và
hơn 20% ngân sách quốc gia phải chi cho hoạt động quân sự để gìn giữ
“chế độ xã hội chủ nghĩa” ở nước ngoài, có nhiều lý do để tin rằng Liên
Xô đã đi đến chỗ buộc phải cải cách nếu muốn sống còn.
Tham
nhũng là một vấn đề không xa lạ với mọi quốc gia trên thế giới. Song
tham nhũng và lạm quyền tại một quốc gia mà mọi ngóc ngách của nền kinh
tế bị chính phủ kiểm soát có những đặc trưng thú vị hơn.
Theo
nhà nghiên cứu Charles A. Schwartz, có đến ba kiểu tham ô – tham nhũng
tại Liên Xô. “Tham nhũng hành chính trắng” (white administrative
corruption), là loại nhẹ nhất (không bị pháp luật Liên Xô hình sự hóa),
nhưng cũng đi sâu vào bản chất văn hóa lao động nhất và có ảnh hưởng gốc
rễ đến năng suất làm việc và khả năng sáng tạo sản phẩm tiêu dùng của
người dân tại đây.
Do
các ngành sản xuất đều bị kiểm soát theo sản lượng và kế hoạch, việc
hoàn thành chỉ tiêu mà nhà nước đề ra trở thành “nồi cơm” của mọi tầng
lớp lao động hay quản lý tại Liên Xô. Lương, thưởng, thăng tiến, lợi thế
chính trị đều lệ thuộc vào những chỉ tiêu này. Cách thức quản lý này
gây ra hiện tượng “báo cáo khống” (report padding) – hay nói kiểu dân dã
Việt Nam, là căn bệnh “thành tích”. Người quản lý các đội nhóm làm việc
thì không muốn báo cáo các vấn đề sản xuất của đội mình lên cấp trên.
Giới lãnh đạo nhà máy, xí nghiệp có nhận ra vấn đề hay không thì vẫn
theo guồng mà chạy để bảo đảm các lợi ích kinh tế và chính trị của việc
hoàn thành chỉ tiêu tạo ra.
Không
phải quan tâm đến chất lượng, thị trường sản phẩm, nhu cầu của người
tiêu dùng hay cạnh tranh, không có gì khó hiểu khi sự đa dạng, tiêu
chuẩn, khả năng sáng tạo của hầu hết các loại sản phẩm của Liên Xô dù là
nông nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp hay công nghiệp nặng đều có dấu
hiệu thua kém so với các quốc gia tư bản phương Tây, nơi mà hiệu quả,
năng suất và lợi nhuận là những tiêu chí hàng đầu trong đánh giá sản
xuất.
Thể
dạng tham nhũng nói trên dần được Khruschev xác định ra và bị chuyển
hóa thành một tội hình sự dạng nhẹ trong những năm giữa thập niên 1960.
Song điều này không làm thay đổi thực tế là nền kinh tế Liên Xô vẫn vận
hành hoàn toàn bằng kế hoạch và chỉ tiêu sản lượng từ nhà nước giao
xuống, một mô hình luôn được được những nhóm hưởng lợi từ cơ chế cũng
như bởi những nhà Marxist bảo thủ bảo vệ.
Không
chỉ vậy, nghiên cứu “Sự trỗi dậy và lụi tàn của nền kinh tế Liên Xô”
(tên tiếng Anh: The rise and decline of Liên Xô economy) khá nổi tiếng
vì tính trung lập của Giáo sư kinh tế Robert C. Allen, thuộc Đại học
British Columbia, còn tiếp cận và chỉ ra những đặc điểm thú vị khác của
nền kinh tế Liên Xô.
Theo
ông, cần thừa nhận rằng từ năm 1928 đến năm 1970, Liên Xô có tốc độ
tăng trưởng vượt trội mọi quốc gia công nghiệp phát triển (OECD) khác,
kể cả nếu so sánh với Hoa Kỳ. Họ đứng sau Nhật Bản, nhưng điều đó cũng
đủ khiến Liên Xô trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai thế
giới (luôn giữ mức trên 5%).
Song
trong giai đoạn thứ hai, từ năm 1970 cho đến khi không còn tồn tại, tỷ
lệ tăng trưởng (dù là GNP hay GDP) của Liên Xô chỉ thoi thóp ở mức 2%,
thấp hơn hầu hết các quốc gia OECD cũng như Hoa Kỳ. Điều gì khiến cho sự
chênh lệch này lại đáng kể và đột ngột đến như vậy?
Thông
qua kiểm chứng số liệu và chạy mô hình kinh tế, Giáo sư Allen cho biết
thành công của Liên Xô giai đoạn 1928 – 1970 dựa trên ba lý do chính:
(1)
Việc duy trì chính sách Kinh tế mới (New Economic Policy) từ 1928 đến
1940, theo đó duy trì sản xuất nông nghiệp hộ – cá thể và những cốt lõi
của nền kinh tế thị trường như cho phép giá cả dao động theo cung cầu,
bảo hộ quyền tư hữu một cách cơ bản… tạo nền tảng cho phát triển kinh
tế;
(2)
Chú trọng và can thiệp độc quyền vào các ngành công nghiệp nặng (sản
xuất gang, thép, chế phẩm kim loại…), đồng thời với chính sách nhấn mạnh
vào các loại hàng hóa sản xuất như máy móc thiết bị nông nghiệp, công
nghiệp (Producer goods, trái ngược với Consumer goods là hàng hóa tiêu
dùng – công nghiệp nhẹ) giúp cho năng lực sản xuất công nghiệp được tăng
cường, và lĩnh vực này cũng tạo ra được nguồn tư bản đáng kể thông qua
hoạt động xuất khẩu.
(3)
Cuối cùng, cơ chế điều hành kinh tế tập trung và quản lý sản xuất dựa
trên chỉ tiêu kết hợp cùng Ức chế ngân sách mềm (Soft Budget Constraint –
tạm hiểu là việc các nhà nước sẽ hỗ trợ, cung cấp ngân sách hay thậm
chí bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước) khiến cho hoạt động sản xuất mở
rộng một cách chóng mặt, từ đó thu hút việc làm cho phần lớn người dân
tại các vùng nông thôn chưa có việc làm, đẩy tăng trưởng của năng suất
lao động và thành phẩm, mở rộng nhu cầu tiêu dùng của cả nền kinh tế nói
chung.
Tuy
nhiên, kiểm soát thị trường bằng mệnh lệnh hành chính cũng phải tới
thời điểm lộ ra sự yếu kém của nó. Khi mọi người đều có việc, năng suất
lao động bắt đầu chững lại, và sản lượng chỉ có thể tăng dựa vào các
quyết định đầu tư và cải thiện đúng đắn. Song các quyết định đầu tư
khổng lồ vào những ngành công nghiệp cũ kỹ không tìm thấy được kết quả
sản lượng và tăng trưởng việc làm như mong đợi. Các mỏ khoáng sản truyền
thống như dầu, gang thép… cứ dần cạn kiệt và hoạt động khai thác không
có tiến triển tốt dù chi phí duy trì của những ngành này là khổng lồ.
Như Allen nói đùa, chính các lãnh đạo Liên Xô đã biến nền kinh tế nước
này trở thành một điều thần kỳ, nhưng khi thế giới thay đổi, và những vị
lãnh đạo này không còn khả năng tưởng tượng ra tương lai của nền kinh
tế thế giới, điểm mạnh nhất của chính quyền trở thành yếu điểm của nó –
nền kinh tế Liên Xô đã không còn kịp thích nghi và đáp ứng với thế giới
xung quanh.
Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tiếp Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev năm 1987 tại Nhà Trắng. Ảnh: AP. |
Gorbachev – Nhà cải cách hay kẻ tội đồ?
Năm
1985, Liên bang Xô Viết đứng ở ngã ba đường. Các chỉ số kinh tế sụt
giảm, người dân bắt đầu cảm nhận được sự khác biệt trong đời sống tiêu
dùng tại các quốc gia tư bản Tây Âu – Hoa Kỳ và tại Liên Xô, sự mệt mỏi
và cồng kềnh của bộ máy quan liêu dần biểu lộ rõ sau khi công nghệ thông
tin và hệ thống mạng toàn cầu lần đầu tiên được giới thiệu và hoàn
thiện.
Và
cũng không may cho Liên Xô, giới lãnh đạo Đảng dường như cũng không còn
sức sống. Với ba cái chết liên tục của các đời tổng bí thư Leonid
Brezhnev, Yuri Andropov, Konstantin Chernenko chỉ trong ba năm, phương
thức tuyển chọn lãnh đạo của các chính thể chuyên chế như Liên Xô không
còn nhiều sự lựa chọn – và Mikhail Gorbachev trở thành người kế nhiệm
của “đế chế” Liên Xô khổng lồ. Nói ra điều này không phải để phủ nhận
năng lực của Gorbachev, mà nhằm cho thấy nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô
đang trong tình trạng khủng hoảng, và một nhân vật có tư tưởng cấp tiến
như Gorbachev cuối cùng có cơ hội trỗi dậy.
Tháng
Năm năm 1985, chỉ hai tháng sau khi nhậm chức, Gorbachev đưa ra chính
sách cải cách đầu tiên của mình – chiến dịch chống lạm dụng rượu. Ông
nhìn thấy được sự thiếu hiệu quả của hệ thống lao động và sản xuất của
Liên Xô, như các nhà nghiên cứu mà bài viết đề cập ở trên, song đối
tượng – nguyên nhân của tệ nạn mà ông nhắm tới có vẻ không chính xác.
Chính
sách bắt đầu với việc hạn chế các cửa hàng được phép bán thức uống có
cồn, nhiều nhà máy pha chế và nấu rượu bị đóng cửa, tiêu hủy các vườn
trồng nho và nguyên vật liệu khác để nấu rượu tại những nền cộng hòa chỉ
chuyên sản xuất rượu bên trong liên bang như Moldavia, Armenia và
Georgia. Không chỉ vậy, nhà hàng bị cấm bán rượu trước 2 giờ chiều; và
các cơ quan tại Nga phấn đấu thi đua trở thành những cơ quan không rượu.
Tuy
nhiên, như đã nói, năng suất lao động kém ở Liên Xô là một vấn đề của
cơ chế và mô hình của nền kinh tế, không phải chỉ bởi vì thói quen thích
uống rượu của người Liên Xô. Chiến dịch kết thúc mà không đạt được
thành tựu gì cụ thể, chỉ riêng Gorbachev bắt đầu được gọi là mineral’nyi
sekretar’ (Bí thư nước khoáng) thay vì general’nyi sekretar’ (Tổng bí
thư).
Mọi
sự vẫn còn chưa đến đâu thì vào năm 1986, thảm họa Chernobyl diễn ra.
Sự tụt hậu và cũ kỹ của công nghệ Liên Xô không chỉ được phơi bày, nó
còn làm các quốc gia cộng hòa thành viên đặt dấu hỏi về tính minh bạch
và sự trung thực của các nhà lãnh đạo Liên Xô sau thảm họa. Nhu cầu và
áp lực cải cách ngày càng đè nặng lên vai Gorbachev.
Để
dễ thở hơn cho các cải cách trong nước, Gorbachev tìm cách giảm căng
thẳng Chiến tranh Lạnh với phương Tây, mà đặc biệt nhất là Hiệp ước Giải
giáp Vũ khí Hạt nhân Trung tầm (Intermediate-Range Nuclear Forces
Treaty), theo đó hai bên cam kết sẽ tiêu hủy và không phát triển hay sử
dụng các loại vũ khí hạt nhân có bán kính sử dụng từ 500 đến 5.000 km.
Giới chính trị phương Tây có cảm giác có thể làm việc và tin tưởng
Gorbachev, trong khi bản thân ông này cũng có thể tập trung vào các vấn
đề quốc nội nhiều hơn.
Lần
này, chính quyền Gorbachev buộc phải dùng cách tiếp cận cấp tiến hơn và
những cải cách “nặng đô” hơn, với hai nguyên tắc chủ đạo là perestroika
(restructuring – tái cơ cấu) và glasnost (openness – mở) nhắm vào cả
không gian kinh tế và chính trị.
Ví
dụ, tháng Sáu năm 1987, cuộc bầu cử đa ứng viên đầu tiên được thử
nghiệm ở cấp địa phương với kỳ vọng tăng cường hoạt động tham gia dân
chủ của người dân và tiếp nhận thêm ý kiến để hoàn thiện mô hình thể
chế. Ngay sau đó, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được giải phóng dần, trao
bớt quyền cho địa phương và doanh nghiệp thay vì điều hành nền kinh tế
theo cơ chế mệnh lệnh tập trung, cũng như cho phép thành lập những doanh
nghiệp hợp tác (cooperative enterprises) đầu tiên.
Tuy
nhiên, những cải cách này cũng không tỏ ra hiệu quả. Đổi mới trong kinh
tế dù được thực hiện, lại vẫn còn vướng với mô hình quản trị lâu năm
của kế hoạch hóa, kiểm soát giá và trợ cấp chính phủ – những đặc trưng
của nền kinh tế XHCN mà giới lãnh đạo trung ương Liên Xô vẫn loay hoay
cãi nhau xem nên bỏ hay giữ. Do đó, văn hóa sáng tạo và nhận thức kinh
doanh – sản xuất hàng hóa như một nhu cầu tư nhân vẫn không thể hình
thành.
Mặt
khác, cải cách chính trị khiến Liên Xô giống như một con bệnh lâu ngày
mới khám, và ổ bệnh liên quan đến xung đột sắc tộc cũng như danh tính
quốc gia bùng nổ. Các quốc gia cộng hòa thành viên của Liên Xô cũng như
quốc gia cộng sản trong khối xã hội chủ nghĩa không còn nhìn hệ thống
như một sự gắn kết của tư tưởng chính trị nữa. Thay vào đó, họ cho rằng
đây là sự áp đặt của ngoại bang. Biểu tình ngày càng lan rộng, và những
xung đột bạo lực vượt quá tầm kiểm soát của chính quyền địa phương.
Ở
thời điểm này, có hai phe trong giới lãnh đạo Liên Xô. Nhóm thứ nhất
chủ trương không can thiệp và chấp nhận một số yêu cầu của những nền
cộng hòa thành viên – mà đại diện là Gorbachev. Theo lập luận của phe
này, đại đa số những khu vực này vẫn còn muốn nằm trong Liên bang Xô
Viết, chúng ta chỉ cần trao quyền bớt cho chính quyền dân cử địa phương
mà thôi. Tuy nhiên, phe bảo thủ của Đảng Cộng sản Liên Xô không đồng
tình. Họ cho rằng đây là biểu hiện của một chính quyền yếu đuối, và sẽ
làm suy giảm nghiêm trọng vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế.
Ngày
19 tháng Tám năm 1991, sau khi thành lập Hội đồng Khẩn cấp Quốc gia
(State Emergency Committee – vốn vi hiến vì không được ghi nhận trong
pháp luật Liên Xô), giới tướng lĩnh quân sự và quan chức Cơ quan An ninh
Quốc gia (KGB) tiến hành đảo chính Gorbachev. Theo họ, đây là biện pháp
cuối cùng để cứu Liên bang Xô viết khỏi sự sụp đổ.
Gorbachev bị đặt vào tình trạng quản thúc tại gia và lệnh thiết quân luật được ban hành.
Tuy
nhiên, bất kể có Gorbachev hay không, bản thân những người cầm đầu cuộc
đảo chính hoàn toàn không rõ họ sẽ làm gì trong tình trạng kinh tế –
chính trị Liên Xô thời điểm đó.
Người
dân Nga không mong muốn nhìn thấy một Liên Xô cũ kỹ của ngày xưa quay
trở lại – điều mà cuộc đảo chính nhắm đến, và đồng loạt xuống đường ngăn
chặn các lực lượng quân sự. Kế hoạch của quân đội và KGB cũng không
nhận được sự đồng tình từ hệ thống quan chức hành chính, cơ quan lập
pháp và bộ máy nhà nước nói chung. Cô đơn trên mọi mặt trận, cuộc đảo
chính của giới quân sự và an ninh thất bại sau ba ngày, và chỉ càng làm
tăng thêm sự tức giận của người dân dành cho mô hình nhà nước Liên Xô.
Đây
chính là cơ sở để ba lãnh đạo của ba quốc gia lớn nhất còn tồn tại
trong Liên Xô: Nga (do Boris Yeltsin đứng đầu), Belarus (do Stanislav
Shushkevich lãnh đạo) và Ukraine (do Leonid Kravchuk nắm quyền) họp kín
để quyết định về vận mệnh của Liên bang Xô Viết mà không có Gorbachev.
Cả ba bên thống nhất giải thể liên bang vào ngày 31 tháng 12 năm 1991,
riêng Gorbachev không còn cách nào khác ngoài từ chức.
Lời kết
Với
những thông tin kiểm chứng nói trên, khó có thể cho rằng Liên Xô tan rã
là một “tai nạn” của lịch sử, một sự kiện xảy ra chỉ bởi vì sai lầm của
một cá nhân. Liên Xô đúng là vĩ đại theo cách riêng của nó, nhưng chính
những thứ làm quốc gia này trở nên vĩ đại cũng là rào cản cho sự phát
triển và năng động của nó trong thời đại mới. Gorbachev, theo người
viết, thật ra đã làm hết sức mình. Bản thân ông vẫn còn luyến tiếc Liên
Xô và thù hận sự phản bội của Boris Yeltsin. Song với làn sóng mới trong
kinh tế, công nghệ và chủ nghĩa dân tộc địa phương, sự tan rã của Liên
Xô một thời hùng mạnh thật ra cũng chỉ nằm trong guồng quay của lịch sử
mà thôi.
Võ Văn Quản
(Luật Khoa Tạp Chí)
Không có nhận xét nào