Cuộc chiến thương mại của Tổng
thống Donald Trump – việc áp đặt thuế quan – có khả năng làm rung chuyển
nền kinh tế Trung Quốc vốn phụ thuộc vào xuất khẩu.
|
Tháng
12/2018 đánh dấu dịp kỷ niệm 40 năm ngày diễn ra phiên họp toàn thể lần
thứ ba của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI,
vốn mang ý nghĩa lịch sử to lớn và được coi là khởi đầu của cái gọi là
“thời kỳ cải cách” của Trung Quốc. Như mọi người đều biết, cải cách đã
thúc đẩy Trung Quốc vươn tới những tầm cao phi thường.
Tuy vậy, đất nước này đã đạt tới đỉnh cao của mình. Ban lãnh đạo chính trị của Trung Quốc, được dẫn dắt bởi một Tập Cận Bình đầy ý chí, giờ đây đang phủ nhận chính những chính sách theo đường lối cải cách vốn là nguyên nhân dẫn tới sự trỗi dậy đáng ngạc nhiên của nước này.
Và khi Trung Quốc tiến gần tới dấu mốc kỷ niệm này, sự tự tin tột bậc của nhiều người Trung Quốc đang nhanh chóng chuyển thành nỗi lo âu sâu sắc. Tập Cận Bình có thể vẫn tin chắc vào tiến trình thụt lùi và quyết liệt mà ông đã đặt ra, nhưng nếu là như vậy thì ông chỉ có một mình.
Cách đây không lâu, người dân Trung Quốc chẳng có lý do gì mà không hy vọng. Hầu hết mọi người đều tin rằng Trung Quốc sẽ lấy lại vị thế của mình trên đỉnh cao của hệ thống quốc tế. Nhiều người gọi kỷ nguyên này là “Thế kỷ Trung Quốc”, và sự thống trị của Trung Quốc được coi là “không thể tránh khỏi”, “không thể lay chuyển” và “không thể chối cãi”.
“Giấc mộng Trung Hoa” về “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”, khẩu hiệu đặc trưng của Tập Cận Bình, đã được nhắc lại nhiều lần không ngớt trong giới quan chức, và ở Bắc Kinh, đất nước Trung Quốc chỉ có thể có một tương lai duy nhất. Dẫn lời hãng thông tấn chính thức Tân Hoa Xã vào tháng 10/2017, “Trung Quốc đã sẵn sàng lấy lại sức mạnh của mình và trở lại đỉnh cao của thế giới”. Tham vọng ngông cuồng có ở khắp mọi nơi. Tháng 3/2018, khi đề cập tới các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Arthur Waldron thuộc Đại học Pennsylvania nói với tác giả bài viết: “Họ thực sự tin rằng họ là quốc gia hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới”.
Trung Quốc vẫn luôn là một nước lớn, nhưng cũng có lúc yếu kém do sự quản trị nghèo nàn. Cách đây 4 thập kỷ, tại phiên họp toàn thể lần thứ ba lịch sử của đảng, Đặng Tiểu Bình đã khuất phục được những người kiên quyết ủng hộ chủ nghĩa Mao Trạch Đông, và kế hoạch “cải cách và mở cửa” của ông đã được thông qua. Cách tiếp cận này đã giải phóng tinh thần doanh nghiệp, năng lượng và lòng nhiệt tình mà chủ nghĩa Mao Trạch Đông kéo dài hơn một thế hệ đã không thể triệt tiêu. Sau đó, Đặng Tiểu Bình đã phải định kỳ vượt qua sự phản kháng trong đảng đối với việc tự do hóa kinh tế, nhưng tiến trình của Trung Quốc đã được ấn định sau cuộc thị sát miền Nam của ông vào năm 1992 – một chuyến đi tới Thượng Hải và các thành phố thuộc tỉnh Quảng Đông, và là dấu hiệu cho thấy những nhà cải cách kinh tế cuối cùng đã chiến thắng.
Người kế nhiệm ngay sau Đặng Tiểu Bình là Giang Trạch Dân cũng có nhiều điểm tương đồng với một nhà cải cách. Chu Dung Cơ, vị thủ tướng không khoan nhượng dưới thời Giang Trạch Dân, đã buộc các doanh nghiệp nhà nước phải giải thể và đàm phán để Trung Quốc bước vào nền thương mại toàn cầu với việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới vào tháng 12/2001. Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ cũng bảo đảm cho sự phát triển và sự thịnh vượng của các thị trường tài chính mới của Trung Quốc.
Hồ Cẩm Đào, người kế nhiệm Giang Trạch Dân, là người nắm quyền trong suốt giai đoạn tăng trưởng kinh tế kéo dài hơn một thập kỷ mà hầu như không có thay đổi gì về cấu trúc. Thời kỳ ông cầm quyền, bắt đầu từ năm 2002, giờ đây được nhìn nhận một cách đúng đắn là thời kỳ bỏ lỡ cơ hội. Các nhà quan sát cho rằng lập trường chính trị yếu kém của Hồ Cẩm Đào đã cản trở các nỗ lực cải cách vì một số lý do, trong đó có việc ông không thể vượt qua thái độ quả quyết chống đối của các nhóm lợi ích vốn đã có thể làm giàu và ăn sâu bám rễ trong những năm đầu của thời kỳ cải cách.
Do đó, những người lạc quan đã vui mừng trước việc Tập Cận Bình, tổng bí thư tiếp theo của Đảng Cộng sản, hứa hẹn sẽ là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ hơn hẳn. Câu chuyện chung là nhà lãnh đạo tối cao mới sẽ có thể thực hiện những thay đổi, và nhiều nhà quan sát đã tuyên bố rằng phiên họp toàn thể lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương khóa XVIII vào tháng 11/2013 là một sự kiện có ảnh hưởng sâu rộng khác. Trong kết luận của mình, đảng cộng sản Trung Quốc đã công bố những cải cách về cấu trúc và, bằng ngôn từ thu hút sự chú ý, tuyên bố rằng từ nay trở đi, thị trường sẽ đóng “vai trò quyết định” trong việc phân bổ nguồn lực. Theo nguồn tin chính thức sau phiên họp, “vai trò quyết định” có nghĩa là “các thế lực khác có thể gây ảnh hưởng và định hướng việc phân bổ nguồn lực, nhưng nhân tố quyết định không gì khác chính là thị trường”.
Hãy quên thị trường đi. Nhân tố quyết định trong kỷ nguyên Tập Cận Bình đã được chứng tỏ chính là Tập Cận Bình. Năm 2017, Scott Kennedy thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế có trụ sở ở Washington đã viết: “Thủ phạm là sự can thiệp rất lớn của nhà nước”. Trong suốt nhiệm kỳ của Tập Cận Bình, nhà nước đã “tiến bước” và thị trường đã “rút lui”, theo cách nói thường được sử dụng. Tập Cận Bình đã buộc Trung Quốc quay trở lại tình trạng mà chắc hẳn Mao Trạch Đông sẽ cảm thấy quen thuộc.
Chẳng hạn, Tập Cận Bình đã và đang bận bịu với việc tái kết hợp các doanh nghiệp nhà nước, vốn đã có quy mô lớn, trở lại thành các bên tham gia thị trường vượt trội và trong một số trường hợp là các công ty độc quyền chính thức của nhà nước. Ông tăng cường các khoản trợ cấp của nhà nước dành cho những bên tham gia được ưu ái và thắt chặt các biện pháp kiểm soát vốn đã chặt chẽ, thường thực thi các quy định không được thông báo.
Tập Cận Bình cũng chú trọng hơn nữa vào chính sách công nghiệp. Đáng chú ý nhất trong số này là sáng kiến “Made in Chine 2025” của ông, được công bố vào năm 2015. CM2025, tên gọi của sáng kiến này ở Trung Quốc, nhắm tới việc làm cho đất nước gần như tự cung tự cấp trong 11 ngành công nghiệp trọng yếu, tính đến cả ngành thông tin liên lạc không dây 5G mới được bổ sung, trong đó có các ngành máy bay, robot, xe điện, công nghệ thông tin, sản phẩm y tế và thiết bị bán dẫn.
Đồng thời, Tập Cận Bình đã đóng cửa các thị trường của Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài bằng những hành động thực thi pháp luật mang tính phân biệt đối xử, các cuộc tẩy chay được truyền thông nhà nước thúc đẩy và bằng luật pháp, vốn phần nào được thiết kế nhằm gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh ngoài nước.
Hơn nữa, Tập Cận Bình đã gia tăng đáng kể sự kiểm soát của nhà nước đối với các thị trường chứng khoán. Mùa Hè năm 2015, các cổ đông nắm quyền kiểm soát đã bị cấm bán cổ phần, các bên bán “có ý đồ xấu” đã bị điều tra, các thể chế nhà nước và các tổ chức khác đã bị buộc phải mua cổ phiếu và ngân hàng bị buộc phải gia hạn các khoản vay chứng khoán. Những biện pháp này đến nay đã được nới lỏng, nhưng nhà nước hiện vẫn có sức ảnh hưởng lớn hơn so với khi Tập Cận Bình tiếp quản quyền lực vào năm 2012.
Cuối cùng, Tập Cận Bình đang thúc đẩy việc quốc hữu hóa phần nào lĩnh vực công nghệ bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước mua cổ phần của các công ty khởi nghiệp.
Các mô hình kinh tế do nhà nước chỉ đạo như mô hình của Tập Cận Bình có thể huy động nguồn lực và tạo ra sự tăng trưởng trong ngắn hạn – Stalin và Mao Trạch Đông đã tạo ra những kết quả vượt trội sau lần đầu tiên nắm quyền và Kim Nhật Thành cũng đã làm được điều này sau Chiến tranh Triều Tiên – nhưng không một mô hình nào như vậy có thể duy trì được sự tăng trưởng. Điều không may đối với Tập Cận Bình là ông đã lên nắm quyền khi chu kỳ kinh tế của Trung Quốc rõ ràng sắp chấm dứt. Theo Tổng cục Thống kê Quốc gia, hiện tượng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm sút so với cùng kỳ năm trước diễn ra gần đây nhất là vào năm 1976, năm mà Mao Trạch Đông qua đời. Và các nhà phân tích kinh tế không nhận thấy gì ngoài rắc rối trước mắt đối với Trung Quốc, bắt đầu là tình trạng tích lũy nợ chưa từng thấy của nước này. Hồ Cẩm Đào và thủ tướng dưới thời ông là Ôn Gia Bảo đã kích thích nền kinh tế quá mức thông qua việc cho vay để tránh các tác động của cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008, và giờ đây dưới thời Tập Cận Bình, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một “con nghiện” không thể tăng trưởng nếu không cho vay với khối lượng lớn.
Hiện tại, nước này đang tích lũy nợ nhanh hơn tăng trưởng, “ăn sống chính mình” theo cách mô tả của Anne Stevenson-Yang thuộc công ty nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, trong những lời bình luận với tác giả bài viết. Khi tính đến cái được gọi là “nợ ẩn”, nước này đang gánh số nợ có lẽ gấp khoảng 1,5 lần GDP danh nghĩa mà nước này tạo ra, nếu số liệu chính thức về GDP là chính xác.
Chúng không hề chính xác. Bắc Kinh cho biết tăng trưởng trong nửa đầu năm 2018 đạt 6,8% và tuyên bố rằng tăng trưởng trong 12 quý liên tiếp duy trì trong khoảng 6,7%-6,9%. Mức tăng trưởng trên thực tế thấp hơn nhiều. Số liệu của nước này không nhất quán với các chỉ số cơ bản. Chẳng hạn, Bắc Kinh tuyên bố đạt mức tăng trưởng 6,7% trong năm 2016. Tuy nhiên, vào giữa năm 2017, ngân hàng thế giới đã công bố một biểu đồ cột cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc chỉ tăng trưởng 1,1%. Con số gây sốc 1,1% gần với chỉ số tổng thể chính xác nhất về hoạt động kinh tế của Trung Quốc, đó là tổng mức tiêu thụ năng lượng căn bản. Theo các nguồn tin chính thức, năm 2016 tổng mức tiêu thụ năng lượng căn bản đã tăng, nhưng chỉ ở mức 1,4%. Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – mức tiêu thụ năng lượng đã tăng 2,9% trong năm đó – nhưng GDP hẳn không thể tăng trưởng ở mức 6,9% như tuyên bố.
Sự trì trệ rõ ràng này giải thích nỗi lo lắng có thể nhận thấy được ở Bắc Kinh khi các quan chức nhận ra rằng họ không thể tăng trưởng để thoát khỏi khó khăn như trong những giai đoạn trước. Tháng 10/2017, trong một khoảnh khắc khiến người ta phải giật mình, Chu Tiểu Xuyên, khi đó là người đứng đầu ngân hàng trung ương của nước này, đã công khai cảnh báo về tình trạng tích lũy nợ gia tăng khi nói rằng đất nước này đang tiến gần tới “thời điểm Minsky” mà ở đó, giá trị tài sản sẽ sụp đổ. Dường như ông đã đúng. Những nỗ lực nửa vời của Bắc Kinh trong việc “giảm nợ” đã tạo ra một làn sóng vỡ nợ trái phiếu và vỡ nợ khác trong năm 2018, và để duy trì tăng trưởng, các quan chức Trung Quốc giờ đây đã từ bỏ nỗ lực đó.
Các nhà lãnh đạo đất nước có khả năng trì hoãn các cuộc khủng hoảng nợ ở mức độ nào đó. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ người vay, người cho vay, thị trường, tòa án và hầu hết mọi thứ. Tuy vậy, bất chấp sự kiểm soát chặt chẽ của ban lãnh đạo trung ương, Tập Cận Bình không thể quyết định kết quả mãi mãi. Ông chỉ có thể trì hoãn cái mà các nhà kinh tế gọi một cách giảm nhẹ là “sự điều chỉnh”, nhưng bằng cách trì hoãn nó, ông chỉ càng mở rộng thêm cuộc khủng hoảng không thể tránh khỏi. Và khi cuộc khủng hoảng rốt cuộc cũng tới, nó sẽ chôn vùi Trung Quốc. Theo những gì mà Michael Pettis thuộc Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra vào tháng 12/2017 tại Diễn đàn toàn cầu của tạp chí Fortune ở Quảng Châu, sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và khủng hoảng nợ ở các nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đây, tình trạng mất cân bằng không đến nỗi nghiêm trọng và nợ không ở mức cao đến vậy. Do đó, qua thời gian, các khoản nợ ngày càng tăng nhanh hơn so với nguồn lực và những sự hỗn loạn bên dưới trở nên ngày càng lớn. Những cuộc suy thoái, điều mà Trung Quốc hết sức né tránh vì cảm thấy bất an về mặt chính trị, là rất cần thiết, cho phép có những sự điều chỉnh khi chúng vẫn còn tương đối nhỏ.
Ngày càng có nhiều người nhận thức rằng cuộc suy thoái tiếp theo của Trung Quốc sẽ rất nghiêm trọng. Điều đã trở nên rõ ràng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ ngăn chặn những sự điều chỉnh cho tới khi họ không còn khả năng làm vậy. Và khi thời khắc định mệnh đó đến, hệ thống của họ chắc chắn sẽ rơi tự do.
Tập Cận Bình đã né tránh khủng hoảng bằng cách gia tăng sự kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế, nhưng mặc dù một nửa thập kỷ đã trôi qua, ông vẫn chưa vạch ra được giải pháp cho vấn đề cơ bản của một nền kinh tế đang chậm lại. Giải pháp dài hạn duy nhất là đảo ngược xu hướng hướng tới sự thống trị của nhà nước; nói cách khác là cho phép các lực lượng của thị trường phân bổ nguồn lực, giống như những gì Đặng Tiểu Bình đã làm tại phiên họp toàn thể thứ ba vào năm 1978.
Vậy tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc không làm điều đã phát huy tác dụng cách đây 4 thập kỷ và là điều mà hầu như tất cả mọi người đều biết là lối thoát duy nhất hiện nay? Việc gia tăng sự kiểm soát của nhà nước phù hợp với quan điểm của Tập Cận Bình rằng Trung Quốc phải có một người cai trị mạnh mẽ và ông đã dành nhiệm kỳ của mình trên cương vị người đứng đầu Trung Quốc. Nhiều người đã so sánh Tập Cận Bình với Mao Trạch Đông, người cai trị đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng ông cũng được so sánh – một cách phù hợp hơn – với Tần Thủy Hoàng, vốn được coi là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thống nhất.
Bằng việc sử dụng ngôn từ và hình ảnh của các vị hoàng đế Trung Quốc trong những tuyên bố của mình, Tập Cận Bình đã mời gọi những sự so sánh như vậy. Đây không phải là điều ngẫu nhiên khi mà Tập Cận Bình còn được biết đến là “Chủ tịch của mọi thứ, mọi nơi và mọi người” – lại tìm cách ganh đua với những vị hoàng đế.
Kiểm soát tập trung là nền tảng của “thiên hạ”, hay “mọi thứ dưới bầu trời”, một khái niệm của Trung Quốc trong thời kỳ đế quốc. Các hoàng đế Trung Quốc khăng khăng cho rằng họ là người cai trị hợp pháp duy nhất trên thế giới, và để thực thi hệ thống đó, họ ngăn cách phần Trung Quốc trong vương quốc của mình khỏi cái mà họ coi là những vùng lãnh thổ khác của họ. Trong cuốn sách “Trật tự Trung Quốc: Trung Quốc bản thổ, đế chế thế giới và bản chất của sức mạnh Trung Quốc”, Wang lưu ý rằng đây không phải là công thức dẫn đến thành công, và viết rằng hệ thống thiên hạ không có được những thành tích tối ưu, với sự quản trị chuyên chế, nền kinh tế trì trệ trong thời gian dài, khoa học và công nghệ bị bóp nghẹt, hoạt động tinh thần chậm phát triển, nguồn lực không được phân bổ hợp lý, phẩm giá và mạng sống của con người bị coi thường, mức sống của công chúng ở mức thấp và ngày càng đi xuống, cái chết và sự tàn phá diễn ra định kỳ và thường xuyên.
Wang cũng chỉ ra rằng xen kẽ giữa sự quản trị khủng khiếp kéo dài hàng thiên niên kỷ là 3 giai đoạn vàng: vài thế kỷ ngay trước thời kỳ cai trị của Tần Thủy Hoàng; thời nhà Tống, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII; và giai đoạn bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX. Cả 3 giai đoạn đều được ghi dấu bởi sự cởi mở tương đối của Trung Quốc và việc bác bỏ khái niệm “thiên hạ”.
Trong hơn một thập kỷ, Tập Cận Bình đã bác bỏ sự cởi mở, phát biểu như thể ông là một vị hoàng đế và thường viện dẫn những chủ đề có liên quan đến “thiên hạ”. Theo tuyên bố của ông trong thông điệp đầu năm mới vào năm 2017, “Trung Quốc luôn cho rằng thế giới là thống nhất và mọi thứ dưới bầu trời đều là một gia đình”.
Sự suy giảm kinh tế là một trong những động cơ thúc đẩy tình trạng bất ổn. Chẳng hạn, vào tháng 8, những người biểu tình đã đến những nơi xa xôi để tập hợp tại văn phòng của các công ty vỡ nợ, chẳng hạn như tập đoàn HNA ở Hải Nam, hay ở trung tâm quyền lực của Trung Quốc. Ở thủ đô, hàng trăm cảnh sát đã phải phong tỏa trung tâm tài chính của thành phố trước các cuộc biểu tình phản đối những nền tảng cho vay ngang hàng (P2P) bị thất bại. Hàng trăm nghìn nhà đầu tư trên toàn quốc đã mất tiền vì những công cụ cho vay “P2P” này, và họ có lý do để đổ lỗi cho nhà nước về những tổn thất đó. Do vậy, họ tập hợp tại văn phòng của Ủy ban quản lý ngân hàng và bảo hiểm Trung Quốc, cũng như một cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản: Ủy ban kiểm tra kỷ luật trung ương, cơ quan giám sát chống tham nhũng.
Họ tự nhận mình là những người “tị nạn tài chính”, khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo sợ. Những cuộc biểu tình kiểu này đặc biệt gây quan ngại, vì sự yếu kém trong quản lý tăng trưởng, cụ thể là lạm phát, chính là yếu tố ban đầu thúc đẩy các cuộc biểu tình năm 1989 ở Bắc Kinh và 370 thành phố khác. Lần này, thái độ bất mãn còn khiến Trung Quốc quan ngại hơn, vì hai thế hệ vốn không biết gì khác ngoài những điều kiện sống ngày một đi lên đang phải đối mặt với viễn cảnh về một cuộc suy thoái nghiêm trọng.
Những cuộc biểu tình này diễn ra gần như đồng thời với các cuộc biểu tình trên đường phố của các phần tử khác trong xã hội vì những vấn đề kinh tế. Vào tháng 5 và tháng 6/2018, hàng nghìn cựu chiến binh Quân giải phóng nhân dân đã tập hợp ở nhiều thành phố khác nhau trên khắp đất nước – đặc biệt là ở Trấn Giang và tỉnh duyên hải Giang Tô – để phản đối vụ một cựu chiến binh bị đánh đập. Tuy nhiên, giống như các cuộc biểu tình của cựu chiến binh vào năm 2016, điều kích động họ đổ ra đường là triển vọng yếu kém về công ăn việc làm, phúc lợi không thỏa đáng và những lời hứa hẹn mà chính phủ đã không thực hiện được.
Các nhà chức trách đã xoa dịu được những đợt biểu tình này – cũng như các cuộc biểu tình khác về những vấn đề không mang tính kinh tế, như tình trạng pha trộn vắcxin cho trẻ em – nhưng tin xấu đối với Tập Cận Bình là các cuộc biểu tình giờ đây diễn ra từng đợt, cho thấy sự bất hạnh căn bản trong xã hội Trung Quốc.
Sự bất hạnh này phần nào tồn tại là do giới tinh hoa của Trung Quốc giữ quá nhiều nguồn lực cho chính mình. Trước hết, tình trạng tham nhũng đã và đang diễn ra với mức độ gần như không thể tin nổi. Stevenson-Yang chỉ ra rằng “nền kinh tế Trung Quốc đang kết thúc một thập kỷ mà trong thời gian đó giới tinh hoa tài chính đã ngấu nghiến khoản nợ hàng nghìn tỷ. Tình trạng bòn rút diễn ra với mức độ đáng kinh ngạc”.
Điều cũng đáng kinh ngạc là các cam kết của Tập Cận Bình, chẳng hạn như những suy tính trong “dự án thế kỷ” của ông, “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và “Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa” – hai thành phần trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường” được nhiều người nói tới của ông. Sáng kiến “Vành đai và Con đường” là một cam kết trị giá hàng nghìn tỷ USD về cơ sở hạ tầng mà thúc đẩy các mục tiêu địa chính trị của Tập Cận Bình nhằm vạch ra tuyến đường thương mại toàn cầu đi qua Trung Quốc, nhưng bị khu vực tư nhân xa lánh vì phi kinh tế.
Hơn nữa, Tập Cận Bình có những tham vọng lớn khác đòi hỏi phải có những cam kết lớn về tiền mặt. Một ví dụ là hàng trăm tỷ USD dành cho việc hiện đại hóa các lực lượng vũ trang và hàng chục tỷ USD cho viện trợ nước ngoài và các khoản vay sẽ vĩnh viễn không được hoàn trả. Nhiều người lo lắng về việc “ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc gài bẫy các quốc gia không thể trả nợ và do đó đẩy họ vào quỹ đạo của Trung Quốc. Tuy nhiên, hậu quả của việc đó là Trung Quốc đang phải gánh các khoản vay không chắc chắn trong sổ sách của mình, như khoản nợ khoảng 23 tỷ USD mà Venezuela vẫn chưa hoàn trả.
Một vài trong số những dự án này có thể đem lại lợi tức trong tương lai, nhưng trong khi chờ đợi, Bắc Kinh sẽ phải gánh chịu chi phí duy trì chúng. Nói tóm lại, Tập Cận Bình đã mở rộng Trung Quốc quá mức, và nước này giờ đây phải đối mặt với những yêu cầu về kinh tế, cả trong và ngoài nước, mà họ không thể đáp ứng nổi.
Khi Tập Cận Bình theo đuổi mô hình kinh tế đóng, vốn nhiều lần gây thất bại cho Trung Quốc trong quá khứ, ông phải đối phó với 3 nhân tố sẽ kiềm chế sự tăng trưởng trong tương lai. Thứ nhất là tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng. Việc theo đuổi tăng trưởng suốt nhiều thập kỷ, đặc biệt là trong những năm 1950 và thời kỳ cải cách kéo dài 4 thập kỷ, đã để lại cho đất nước bầu không khí độc hại, nguồn nước ô nhiễm và đất đai nhiễm độc. Nước trở nên khan hiếm, ngay cả ở những nơi từng có nguồn nước dồi dào. Trung Quốc có thể tiếp tục tàn phá môi trường để cho phép các nhà máy sản xuất ồ ạt, nhưng người dân đang đòi hỏi phải có môi trường xung quanh sạch sẽ hơn. Với đòi hỏi như vậy, kế hoạch xây dựng các cơ sở sản xuất thường bị trì hoãn, đôi khi bị thu hẹp, hoặc bị loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp.
Thứ hai, tình hình nhân khẩu học sẽ kiềm chế sự tăng trưởng của Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng trong thời kỳ cải cách phần lớn do “lợi ích nhân khẩu học” – sự gia tăng bất thường của lực lượng lao động, có được là nhờ việc Mao Trạch Đông thúc đẩy người Trung Quốc sinh sản nhiều hơn phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, giờ đây dân số nước này đang tiến gần tới sự sụt giảm nhanh chóng do chính sách 1 con của Đặng Tiểu Bình. Lực lượng lao động đã thu hẹp lại, lần đầu tiên ở mức cao nhất vào năm 2011 theo các số liệu chính thức. Hiện tại, Bắc Kinh khăng khăng cho rằng tổng số dân sẽ đạt mức cao “vào khoảng năm 2030”. Trên thực tế, dân số có lẽ sẽ đạt mức cao nhất trước đó nhiều năm, có thể là ngay trong năm 2020 theo phát biểu công khai của một quan chức cấp cao cách đây vài năm. Bất luận thế nào, dân số Trung Quốc cũng đang trên đà giảm hơn 400 triệu người trong thế kỷ này, phản ánh tình trạng giảm tỷ lệ sinh đáng lo ngại đang diễn ra ở Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và các khu vực khác ở Đông Á.
Việc Bắc Kinh chuyển sang chính sách 2 con, có hiệu lực từ đầu năm 2016, đã không chặn đứng được những xu hướng đáng báo động về nhân khẩu học. Tỷ lệ sinh của Trung Quốc tiếp tục giảm, với 17,23 triệu ca sinh trong năm 2017, thấp hơn con số 17,86 triệu ca sinh trong năm 2016.
Không điều nào trong số này đồng nghĩa với việc các nhà kỹ trị của Trung Quốc không thể làm cho nền kinh tế của họ tăng trưởng trong tương lai. Nhưng chúng nói lên rằng họ sẽ phải tìm cách làm điều đó bất chấp tình trạng giảm tỷ lệ sinh, chứ không phải được tỷ lệ sinh thúc đẩy. Trung Quốc đã cho thấy họ có thể làm giảm số ca sinh – các quan chức tự hào tuyên bố rằng sự cưỡng chế của chính sách 1 con đã ngăn chặn 400 triệu ca sinh – nhưng cho đến nay, họ đã thất bại trong việc gia tăng khả năng sinh sản, nỗ lực gần đây nhất của họ.
Thứ ba, Trung Quốc không còn nhận được sự hỗ trợ của Mỹ, hay thậm chí là của Liên minh châu Âu (EU). Những hành động trục lợi trong thương mại của Bắc Kinh kéo dài nhiều thập kỷ, cũng như những động thái địa chính trị quá hung hăng và hiếu chiến của Tập Cận Bình đã làm thay đổi suy nghĩ ở các thủ đô nước ngoài. Cho tới gần đây, Trung Quốc đã tiến bộ rất nhanh phần lớn vì các chính quyền Mỹ kế tiếp nhau mong muốn nước này thành công. Giờ đây, Mỹ đã trở nên hoặc thù địch, hoặc thờ ơ. Do các chính sách của Mỹ hoặc có ý định làm suy yếu Trung Quốc hoặc không tính đến các lợi ích của Bắc Kinh, nên nền kinh tế và hệ thống tài chính ngày càng cứng nhắc của Trung Quốc đang phải chịu sức ép. Các quốc gia và các nhóm nước khác, đặc biệt là EU, đang theo chân Mỹ thách thức Bắc Kinh.
Cuộc chiến thương mại của Tổng thống Donald Trump – việc áp đặt thuế quan – có khả năng làm rung chuyển nền kinh tế Trung Quốc vốn phụ thuộc vào xuất khẩu. Vấn đề đối với Bắc Kinh là họ đã trở nên phụ thuộc sâu sắc vào thị trường Mỹ. Năm ngoái, thặng dư thương mại hàng hóa của Trung Quốc từ hoạt động xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 88,9% tổng thặng dư hàng hóa của nước này, một con số ấn tượng. Thêm vào đó là thặng dư hàng hóa của Trung Quốc với Mỹ lên đến 375,6 tỷ USD trong năm 2017; rõ ràng Trump đang nắm trong tay những quân bài có giá trị cao.
Cho đến nay, không giống như những người tiền nhiệm của ông trong 40 năm qua, Tổng thống Mỹ đã cho thấy thái độ sẵn sàng sử dụng sức mạnh của Mỹ để làm suy yếu Trung Quốc. Các nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng vì nhiều lý do, đất nước họ không thể duy trì một cuộc đấu tranh lâu dài với khách hàng quan trọng nhất của mình. Việc các thị trường chứng khoán và tiền tệ Trung Quốc đều sụt giảm mạnh trong năm 2018 khi cuộc chiến thương mại bắt đầu là điều không đáng ngạc nhiên.
Tập Cận Bình đã mất đi sự hỗ trợ của nước ngoài, còn trong nước, đơn giản là ông đã lệch nhịp với xã hội. Có lẽ hệ quả quan trọng nhất của 40 năm cải cách kinh tế của Trung Quốc chính là tính hiện đại.
Tập Cận Bình có thể làm theo ý mình vì ông chỉ huy quyền lực. Tuy nhiên, ông lại gặp rắc rối trong việc buộc người ta phải phục tùng. Vì có công cuộc hiện đại hóa nên ông không có khả năng thuyết phục. Hãy nhìn vào cái được gọi là những chiến dịch theo phong cách Cách mạng Văn hóa của Tập Cận Bình, chẳng hạn như nỗ lực của ông trong mùa Hè năm 2018 nhằm thúc đẩy “tinh thần đấu tranh yêu nước” trong giới trí thức. Nhiều người nhạo báng ông, nhưng thực tế quan trọng hơn cả là giới trí thức Trung Quốc – và người dân Trung Quốc – đơn giản là đang không chú ý.
Sam Crane, một giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Williams, đã nói với tạp chí The National Interest khi sắp kết thúc công việc của mình tại Đại học Nhân dân Trung Quốc ở Bắc Kinh: “Những sự so sánh với Cách mạng Văn hóa thực sự không nắm bắt được điều đang diễn ra ở đây lúc này”. Ông nói: “Sau một tháng làm việc trong khuôn viên trường Đại học Nhân dân, có thể nói tôi không hề nhận thấy dấu hiệu gì của việc sùng bái cá nhân Tập Cận Bình. Hơn nữa, ở khắp nơi trong thành phố, những dấu hiệu cho thấy tầm ảnh hưởng của “sức mạnh mềm” của Mỹ – trong sở thích tiêu dùng, trong dòng người xếp hàng bên ngoài Đại sứ quán Mỹ, trong những thông điệp cá nhân được in trên những chiếc áo phông, trong văn hóa của giới trẻ, trong các quán bar và các câu lạc bộ – vẫn còn rất mạnh mẽ.
Sức mạnh của Trung Quốc – và cũng là điểm yếu tột cùng – là người dân Trung Quốc thường không chịu phục tùng, phần lớn vô trách nhiệm và luôn ồn ào. La Kiến Ba, giám đốc Trung tâm chính sách đối ngoại Trung Quốc thuộc Trường đảng trung ương, viết vào tháng 9/2017: “Tôi nhớ lại một chủ đề tranh luận nóng bỏng giữa những người dùng Internet trẻ tuổi: Ai mới thực sự là kẻ thù của Trung Quốc? Có phải là Mỹ không? Hay là Nhật Bản? Nga? Nếu chúng ta bình tĩnh suy nghĩ về mọi việc, thì có lẽ câu trả lời không nằm trong số đó. Kẻ thù của Trung Quốc là chính mình”.
Tuy vậy, đất nước này đã đạt tới đỉnh cao của mình. Ban lãnh đạo chính trị của Trung Quốc, được dẫn dắt bởi một Tập Cận Bình đầy ý chí, giờ đây đang phủ nhận chính những chính sách theo đường lối cải cách vốn là nguyên nhân dẫn tới sự trỗi dậy đáng ngạc nhiên của nước này.
Và khi Trung Quốc tiến gần tới dấu mốc kỷ niệm này, sự tự tin tột bậc của nhiều người Trung Quốc đang nhanh chóng chuyển thành nỗi lo âu sâu sắc. Tập Cận Bình có thể vẫn tin chắc vào tiến trình thụt lùi và quyết liệt mà ông đã đặt ra, nhưng nếu là như vậy thì ông chỉ có một mình.
Cách đây không lâu, người dân Trung Quốc chẳng có lý do gì mà không hy vọng. Hầu hết mọi người đều tin rằng Trung Quốc sẽ lấy lại vị thế của mình trên đỉnh cao của hệ thống quốc tế. Nhiều người gọi kỷ nguyên này là “Thế kỷ Trung Quốc”, và sự thống trị của Trung Quốc được coi là “không thể tránh khỏi”, “không thể lay chuyển” và “không thể chối cãi”.
“Giấc mộng Trung Hoa” về “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”, khẩu hiệu đặc trưng của Tập Cận Bình, đã được nhắc lại nhiều lần không ngớt trong giới quan chức, và ở Bắc Kinh, đất nước Trung Quốc chỉ có thể có một tương lai duy nhất. Dẫn lời hãng thông tấn chính thức Tân Hoa Xã vào tháng 10/2017, “Trung Quốc đã sẵn sàng lấy lại sức mạnh của mình và trở lại đỉnh cao của thế giới”. Tham vọng ngông cuồng có ở khắp mọi nơi. Tháng 3/2018, khi đề cập tới các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Arthur Waldron thuộc Đại học Pennsylvania nói với tác giả bài viết: “Họ thực sự tin rằng họ là quốc gia hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới”.
Trung Quốc vẫn luôn là một nước lớn, nhưng cũng có lúc yếu kém do sự quản trị nghèo nàn. Cách đây 4 thập kỷ, tại phiên họp toàn thể lần thứ ba lịch sử của đảng, Đặng Tiểu Bình đã khuất phục được những người kiên quyết ủng hộ chủ nghĩa Mao Trạch Đông, và kế hoạch “cải cách và mở cửa” của ông đã được thông qua. Cách tiếp cận này đã giải phóng tinh thần doanh nghiệp, năng lượng và lòng nhiệt tình mà chủ nghĩa Mao Trạch Đông kéo dài hơn một thế hệ đã không thể triệt tiêu. Sau đó, Đặng Tiểu Bình đã phải định kỳ vượt qua sự phản kháng trong đảng đối với việc tự do hóa kinh tế, nhưng tiến trình của Trung Quốc đã được ấn định sau cuộc thị sát miền Nam của ông vào năm 1992 – một chuyến đi tới Thượng Hải và các thành phố thuộc tỉnh Quảng Đông, và là dấu hiệu cho thấy những nhà cải cách kinh tế cuối cùng đã chiến thắng.
Người kế nhiệm ngay sau Đặng Tiểu Bình là Giang Trạch Dân cũng có nhiều điểm tương đồng với một nhà cải cách. Chu Dung Cơ, vị thủ tướng không khoan nhượng dưới thời Giang Trạch Dân, đã buộc các doanh nghiệp nhà nước phải giải thể và đàm phán để Trung Quốc bước vào nền thương mại toàn cầu với việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới vào tháng 12/2001. Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ cũng bảo đảm cho sự phát triển và sự thịnh vượng của các thị trường tài chính mới của Trung Quốc.
Hồ Cẩm Đào, người kế nhiệm Giang Trạch Dân, là người nắm quyền trong suốt giai đoạn tăng trưởng kinh tế kéo dài hơn một thập kỷ mà hầu như không có thay đổi gì về cấu trúc. Thời kỳ ông cầm quyền, bắt đầu từ năm 2002, giờ đây được nhìn nhận một cách đúng đắn là thời kỳ bỏ lỡ cơ hội. Các nhà quan sát cho rằng lập trường chính trị yếu kém của Hồ Cẩm Đào đã cản trở các nỗ lực cải cách vì một số lý do, trong đó có việc ông không thể vượt qua thái độ quả quyết chống đối của các nhóm lợi ích vốn đã có thể làm giàu và ăn sâu bám rễ trong những năm đầu của thời kỳ cải cách.
Do đó, những người lạc quan đã vui mừng trước việc Tập Cận Bình, tổng bí thư tiếp theo của Đảng Cộng sản, hứa hẹn sẽ là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ hơn hẳn. Câu chuyện chung là nhà lãnh đạo tối cao mới sẽ có thể thực hiện những thay đổi, và nhiều nhà quan sát đã tuyên bố rằng phiên họp toàn thể lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương khóa XVIII vào tháng 11/2013 là một sự kiện có ảnh hưởng sâu rộng khác. Trong kết luận của mình, đảng cộng sản Trung Quốc đã công bố những cải cách về cấu trúc và, bằng ngôn từ thu hút sự chú ý, tuyên bố rằng từ nay trở đi, thị trường sẽ đóng “vai trò quyết định” trong việc phân bổ nguồn lực. Theo nguồn tin chính thức sau phiên họp, “vai trò quyết định” có nghĩa là “các thế lực khác có thể gây ảnh hưởng và định hướng việc phân bổ nguồn lực, nhưng nhân tố quyết định không gì khác chính là thị trường”.
Hãy quên thị trường đi. Nhân tố quyết định trong kỷ nguyên Tập Cận Bình đã được chứng tỏ chính là Tập Cận Bình. Năm 2017, Scott Kennedy thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế có trụ sở ở Washington đã viết: “Thủ phạm là sự can thiệp rất lớn của nhà nước”. Trong suốt nhiệm kỳ của Tập Cận Bình, nhà nước đã “tiến bước” và thị trường đã “rút lui”, theo cách nói thường được sử dụng. Tập Cận Bình đã buộc Trung Quốc quay trở lại tình trạng mà chắc hẳn Mao Trạch Đông sẽ cảm thấy quen thuộc.
Chẳng hạn, Tập Cận Bình đã và đang bận bịu với việc tái kết hợp các doanh nghiệp nhà nước, vốn đã có quy mô lớn, trở lại thành các bên tham gia thị trường vượt trội và trong một số trường hợp là các công ty độc quyền chính thức của nhà nước. Ông tăng cường các khoản trợ cấp của nhà nước dành cho những bên tham gia được ưu ái và thắt chặt các biện pháp kiểm soát vốn đã chặt chẽ, thường thực thi các quy định không được thông báo.
Tập Cận Bình cũng chú trọng hơn nữa vào chính sách công nghiệp. Đáng chú ý nhất trong số này là sáng kiến “Made in Chine 2025” của ông, được công bố vào năm 2015. CM2025, tên gọi của sáng kiến này ở Trung Quốc, nhắm tới việc làm cho đất nước gần như tự cung tự cấp trong 11 ngành công nghiệp trọng yếu, tính đến cả ngành thông tin liên lạc không dây 5G mới được bổ sung, trong đó có các ngành máy bay, robot, xe điện, công nghệ thông tin, sản phẩm y tế và thiết bị bán dẫn.
Đồng thời, Tập Cận Bình đã đóng cửa các thị trường của Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài bằng những hành động thực thi pháp luật mang tính phân biệt đối xử, các cuộc tẩy chay được truyền thông nhà nước thúc đẩy và bằng luật pháp, vốn phần nào được thiết kế nhằm gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh ngoài nước.
Hơn nữa, Tập Cận Bình đã gia tăng đáng kể sự kiểm soát của nhà nước đối với các thị trường chứng khoán. Mùa Hè năm 2015, các cổ đông nắm quyền kiểm soát đã bị cấm bán cổ phần, các bên bán “có ý đồ xấu” đã bị điều tra, các thể chế nhà nước và các tổ chức khác đã bị buộc phải mua cổ phiếu và ngân hàng bị buộc phải gia hạn các khoản vay chứng khoán. Những biện pháp này đến nay đã được nới lỏng, nhưng nhà nước hiện vẫn có sức ảnh hưởng lớn hơn so với khi Tập Cận Bình tiếp quản quyền lực vào năm 2012.
Cuối cùng, Tập Cận Bình đang thúc đẩy việc quốc hữu hóa phần nào lĩnh vực công nghệ bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước mua cổ phần của các công ty khởi nghiệp.
Các mô hình kinh tế do nhà nước chỉ đạo như mô hình của Tập Cận Bình có thể huy động nguồn lực và tạo ra sự tăng trưởng trong ngắn hạn – Stalin và Mao Trạch Đông đã tạo ra những kết quả vượt trội sau lần đầu tiên nắm quyền và Kim Nhật Thành cũng đã làm được điều này sau Chiến tranh Triều Tiên – nhưng không một mô hình nào như vậy có thể duy trì được sự tăng trưởng. Điều không may đối với Tập Cận Bình là ông đã lên nắm quyền khi chu kỳ kinh tế của Trung Quốc rõ ràng sắp chấm dứt. Theo Tổng cục Thống kê Quốc gia, hiện tượng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm sút so với cùng kỳ năm trước diễn ra gần đây nhất là vào năm 1976, năm mà Mao Trạch Đông qua đời. Và các nhà phân tích kinh tế không nhận thấy gì ngoài rắc rối trước mắt đối với Trung Quốc, bắt đầu là tình trạng tích lũy nợ chưa từng thấy của nước này. Hồ Cẩm Đào và thủ tướng dưới thời ông là Ôn Gia Bảo đã kích thích nền kinh tế quá mức thông qua việc cho vay để tránh các tác động của cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008, và giờ đây dưới thời Tập Cận Bình, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một “con nghiện” không thể tăng trưởng nếu không cho vay với khối lượng lớn.
Hiện tại, nước này đang tích lũy nợ nhanh hơn tăng trưởng, “ăn sống chính mình” theo cách mô tả của Anne Stevenson-Yang thuộc công ty nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, trong những lời bình luận với tác giả bài viết. Khi tính đến cái được gọi là “nợ ẩn”, nước này đang gánh số nợ có lẽ gấp khoảng 1,5 lần GDP danh nghĩa mà nước này tạo ra, nếu số liệu chính thức về GDP là chính xác.
Chúng không hề chính xác. Bắc Kinh cho biết tăng trưởng trong nửa đầu năm 2018 đạt 6,8% và tuyên bố rằng tăng trưởng trong 12 quý liên tiếp duy trì trong khoảng 6,7%-6,9%. Mức tăng trưởng trên thực tế thấp hơn nhiều. Số liệu của nước này không nhất quán với các chỉ số cơ bản. Chẳng hạn, Bắc Kinh tuyên bố đạt mức tăng trưởng 6,7% trong năm 2016. Tuy nhiên, vào giữa năm 2017, ngân hàng thế giới đã công bố một biểu đồ cột cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc chỉ tăng trưởng 1,1%. Con số gây sốc 1,1% gần với chỉ số tổng thể chính xác nhất về hoạt động kinh tế của Trung Quốc, đó là tổng mức tiêu thụ năng lượng căn bản. Theo các nguồn tin chính thức, năm 2016 tổng mức tiêu thụ năng lượng căn bản đã tăng, nhưng chỉ ở mức 1,4%. Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – mức tiêu thụ năng lượng đã tăng 2,9% trong năm đó – nhưng GDP hẳn không thể tăng trưởng ở mức 6,9% như tuyên bố.
Sự trì trệ rõ ràng này giải thích nỗi lo lắng có thể nhận thấy được ở Bắc Kinh khi các quan chức nhận ra rằng họ không thể tăng trưởng để thoát khỏi khó khăn như trong những giai đoạn trước. Tháng 10/2017, trong một khoảnh khắc khiến người ta phải giật mình, Chu Tiểu Xuyên, khi đó là người đứng đầu ngân hàng trung ương của nước này, đã công khai cảnh báo về tình trạng tích lũy nợ gia tăng khi nói rằng đất nước này đang tiến gần tới “thời điểm Minsky” mà ở đó, giá trị tài sản sẽ sụp đổ. Dường như ông đã đúng. Những nỗ lực nửa vời của Bắc Kinh trong việc “giảm nợ” đã tạo ra một làn sóng vỡ nợ trái phiếu và vỡ nợ khác trong năm 2018, và để duy trì tăng trưởng, các quan chức Trung Quốc giờ đây đã từ bỏ nỗ lực đó.
Các nhà lãnh đạo đất nước có khả năng trì hoãn các cuộc khủng hoảng nợ ở mức độ nào đó. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ người vay, người cho vay, thị trường, tòa án và hầu hết mọi thứ. Tuy vậy, bất chấp sự kiểm soát chặt chẽ của ban lãnh đạo trung ương, Tập Cận Bình không thể quyết định kết quả mãi mãi. Ông chỉ có thể trì hoãn cái mà các nhà kinh tế gọi một cách giảm nhẹ là “sự điều chỉnh”, nhưng bằng cách trì hoãn nó, ông chỉ càng mở rộng thêm cuộc khủng hoảng không thể tránh khỏi. Và khi cuộc khủng hoảng rốt cuộc cũng tới, nó sẽ chôn vùi Trung Quốc. Theo những gì mà Michael Pettis thuộc Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra vào tháng 12/2017 tại Diễn đàn toàn cầu của tạp chí Fortune ở Quảng Châu, sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và khủng hoảng nợ ở các nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đây, tình trạng mất cân bằng không đến nỗi nghiêm trọng và nợ không ở mức cao đến vậy. Do đó, qua thời gian, các khoản nợ ngày càng tăng nhanh hơn so với nguồn lực và những sự hỗn loạn bên dưới trở nên ngày càng lớn. Những cuộc suy thoái, điều mà Trung Quốc hết sức né tránh vì cảm thấy bất an về mặt chính trị, là rất cần thiết, cho phép có những sự điều chỉnh khi chúng vẫn còn tương đối nhỏ.
Ngày càng có nhiều người nhận thức rằng cuộc suy thoái tiếp theo của Trung Quốc sẽ rất nghiêm trọng. Điều đã trở nên rõ ràng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ ngăn chặn những sự điều chỉnh cho tới khi họ không còn khả năng làm vậy. Và khi thời khắc định mệnh đó đến, hệ thống của họ chắc chắn sẽ rơi tự do.
Tập Cận Bình đã né tránh khủng hoảng bằng cách gia tăng sự kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế, nhưng mặc dù một nửa thập kỷ đã trôi qua, ông vẫn chưa vạch ra được giải pháp cho vấn đề cơ bản của một nền kinh tế đang chậm lại. Giải pháp dài hạn duy nhất là đảo ngược xu hướng hướng tới sự thống trị của nhà nước; nói cách khác là cho phép các lực lượng của thị trường phân bổ nguồn lực, giống như những gì Đặng Tiểu Bình đã làm tại phiên họp toàn thể thứ ba vào năm 1978.
Vậy tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc không làm điều đã phát huy tác dụng cách đây 4 thập kỷ và là điều mà hầu như tất cả mọi người đều biết là lối thoát duy nhất hiện nay? Việc gia tăng sự kiểm soát của nhà nước phù hợp với quan điểm của Tập Cận Bình rằng Trung Quốc phải có một người cai trị mạnh mẽ và ông đã dành nhiệm kỳ của mình trên cương vị người đứng đầu Trung Quốc. Nhiều người đã so sánh Tập Cận Bình với Mao Trạch Đông, người cai trị đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng ông cũng được so sánh – một cách phù hợp hơn – với Tần Thủy Hoàng, vốn được coi là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thống nhất.
Bằng việc sử dụng ngôn từ và hình ảnh của các vị hoàng đế Trung Quốc trong những tuyên bố của mình, Tập Cận Bình đã mời gọi những sự so sánh như vậy. Đây không phải là điều ngẫu nhiên khi mà Tập Cận Bình còn được biết đến là “Chủ tịch của mọi thứ, mọi nơi và mọi người” – lại tìm cách ganh đua với những vị hoàng đế.
Kiểm soát tập trung là nền tảng của “thiên hạ”, hay “mọi thứ dưới bầu trời”, một khái niệm của Trung Quốc trong thời kỳ đế quốc. Các hoàng đế Trung Quốc khăng khăng cho rằng họ là người cai trị hợp pháp duy nhất trên thế giới, và để thực thi hệ thống đó, họ ngăn cách phần Trung Quốc trong vương quốc của mình khỏi cái mà họ coi là những vùng lãnh thổ khác của họ. Trong cuốn sách “Trật tự Trung Quốc: Trung Quốc bản thổ, đế chế thế giới và bản chất của sức mạnh Trung Quốc”, Wang lưu ý rằng đây không phải là công thức dẫn đến thành công, và viết rằng hệ thống thiên hạ không có được những thành tích tối ưu, với sự quản trị chuyên chế, nền kinh tế trì trệ trong thời gian dài, khoa học và công nghệ bị bóp nghẹt, hoạt động tinh thần chậm phát triển, nguồn lực không được phân bổ hợp lý, phẩm giá và mạng sống của con người bị coi thường, mức sống của công chúng ở mức thấp và ngày càng đi xuống, cái chết và sự tàn phá diễn ra định kỳ và thường xuyên.
Wang cũng chỉ ra rằng xen kẽ giữa sự quản trị khủng khiếp kéo dài hàng thiên niên kỷ là 3 giai đoạn vàng: vài thế kỷ ngay trước thời kỳ cai trị của Tần Thủy Hoàng; thời nhà Tống, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII; và giai đoạn bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX. Cả 3 giai đoạn đều được ghi dấu bởi sự cởi mở tương đối của Trung Quốc và việc bác bỏ khái niệm “thiên hạ”.
Trong hơn một thập kỷ, Tập Cận Bình đã bác bỏ sự cởi mở, phát biểu như thể ông là một vị hoàng đế và thường viện dẫn những chủ đề có liên quan đến “thiên hạ”. Theo tuyên bố của ông trong thông điệp đầu năm mới vào năm 2017, “Trung Quốc luôn cho rằng thế giới là thống nhất và mọi thứ dưới bầu trời đều là một gia đình”.
Sự suy giảm kinh tế là một trong những động cơ thúc đẩy tình trạng bất ổn. Chẳng hạn, vào tháng 8, những người biểu tình đã đến những nơi xa xôi để tập hợp tại văn phòng của các công ty vỡ nợ, chẳng hạn như tập đoàn HNA ở Hải Nam, hay ở trung tâm quyền lực của Trung Quốc. Ở thủ đô, hàng trăm cảnh sát đã phải phong tỏa trung tâm tài chính của thành phố trước các cuộc biểu tình phản đối những nền tảng cho vay ngang hàng (P2P) bị thất bại. Hàng trăm nghìn nhà đầu tư trên toàn quốc đã mất tiền vì những công cụ cho vay “P2P” này, và họ có lý do để đổ lỗi cho nhà nước về những tổn thất đó. Do vậy, họ tập hợp tại văn phòng của Ủy ban quản lý ngân hàng và bảo hiểm Trung Quốc, cũng như một cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản: Ủy ban kiểm tra kỷ luật trung ương, cơ quan giám sát chống tham nhũng.
Họ tự nhận mình là những người “tị nạn tài chính”, khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo sợ. Những cuộc biểu tình kiểu này đặc biệt gây quan ngại, vì sự yếu kém trong quản lý tăng trưởng, cụ thể là lạm phát, chính là yếu tố ban đầu thúc đẩy các cuộc biểu tình năm 1989 ở Bắc Kinh và 370 thành phố khác. Lần này, thái độ bất mãn còn khiến Trung Quốc quan ngại hơn, vì hai thế hệ vốn không biết gì khác ngoài những điều kiện sống ngày một đi lên đang phải đối mặt với viễn cảnh về một cuộc suy thoái nghiêm trọng.
Những cuộc biểu tình này diễn ra gần như đồng thời với các cuộc biểu tình trên đường phố của các phần tử khác trong xã hội vì những vấn đề kinh tế. Vào tháng 5 và tháng 6/2018, hàng nghìn cựu chiến binh Quân giải phóng nhân dân đã tập hợp ở nhiều thành phố khác nhau trên khắp đất nước – đặc biệt là ở Trấn Giang và tỉnh duyên hải Giang Tô – để phản đối vụ một cựu chiến binh bị đánh đập. Tuy nhiên, giống như các cuộc biểu tình của cựu chiến binh vào năm 2016, điều kích động họ đổ ra đường là triển vọng yếu kém về công ăn việc làm, phúc lợi không thỏa đáng và những lời hứa hẹn mà chính phủ đã không thực hiện được.
Các nhà chức trách đã xoa dịu được những đợt biểu tình này – cũng như các cuộc biểu tình khác về những vấn đề không mang tính kinh tế, như tình trạng pha trộn vắcxin cho trẻ em – nhưng tin xấu đối với Tập Cận Bình là các cuộc biểu tình giờ đây diễn ra từng đợt, cho thấy sự bất hạnh căn bản trong xã hội Trung Quốc.
Sự bất hạnh này phần nào tồn tại là do giới tinh hoa của Trung Quốc giữ quá nhiều nguồn lực cho chính mình. Trước hết, tình trạng tham nhũng đã và đang diễn ra với mức độ gần như không thể tin nổi. Stevenson-Yang chỉ ra rằng “nền kinh tế Trung Quốc đang kết thúc một thập kỷ mà trong thời gian đó giới tinh hoa tài chính đã ngấu nghiến khoản nợ hàng nghìn tỷ. Tình trạng bòn rút diễn ra với mức độ đáng kinh ngạc”.
Điều cũng đáng kinh ngạc là các cam kết của Tập Cận Bình, chẳng hạn như những suy tính trong “dự án thế kỷ” của ông, “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và “Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa” – hai thành phần trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường” được nhiều người nói tới của ông. Sáng kiến “Vành đai và Con đường” là một cam kết trị giá hàng nghìn tỷ USD về cơ sở hạ tầng mà thúc đẩy các mục tiêu địa chính trị của Tập Cận Bình nhằm vạch ra tuyến đường thương mại toàn cầu đi qua Trung Quốc, nhưng bị khu vực tư nhân xa lánh vì phi kinh tế.
Hơn nữa, Tập Cận Bình có những tham vọng lớn khác đòi hỏi phải có những cam kết lớn về tiền mặt. Một ví dụ là hàng trăm tỷ USD dành cho việc hiện đại hóa các lực lượng vũ trang và hàng chục tỷ USD cho viện trợ nước ngoài và các khoản vay sẽ vĩnh viễn không được hoàn trả. Nhiều người lo lắng về việc “ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc gài bẫy các quốc gia không thể trả nợ và do đó đẩy họ vào quỹ đạo của Trung Quốc. Tuy nhiên, hậu quả của việc đó là Trung Quốc đang phải gánh các khoản vay không chắc chắn trong sổ sách của mình, như khoản nợ khoảng 23 tỷ USD mà Venezuela vẫn chưa hoàn trả.
Một vài trong số những dự án này có thể đem lại lợi tức trong tương lai, nhưng trong khi chờ đợi, Bắc Kinh sẽ phải gánh chịu chi phí duy trì chúng. Nói tóm lại, Tập Cận Bình đã mở rộng Trung Quốc quá mức, và nước này giờ đây phải đối mặt với những yêu cầu về kinh tế, cả trong và ngoài nước, mà họ không thể đáp ứng nổi.
Khi Tập Cận Bình theo đuổi mô hình kinh tế đóng, vốn nhiều lần gây thất bại cho Trung Quốc trong quá khứ, ông phải đối phó với 3 nhân tố sẽ kiềm chế sự tăng trưởng trong tương lai. Thứ nhất là tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng. Việc theo đuổi tăng trưởng suốt nhiều thập kỷ, đặc biệt là trong những năm 1950 và thời kỳ cải cách kéo dài 4 thập kỷ, đã để lại cho đất nước bầu không khí độc hại, nguồn nước ô nhiễm và đất đai nhiễm độc. Nước trở nên khan hiếm, ngay cả ở những nơi từng có nguồn nước dồi dào. Trung Quốc có thể tiếp tục tàn phá môi trường để cho phép các nhà máy sản xuất ồ ạt, nhưng người dân đang đòi hỏi phải có môi trường xung quanh sạch sẽ hơn. Với đòi hỏi như vậy, kế hoạch xây dựng các cơ sở sản xuất thường bị trì hoãn, đôi khi bị thu hẹp, hoặc bị loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp.
Thứ hai, tình hình nhân khẩu học sẽ kiềm chế sự tăng trưởng của Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng trong thời kỳ cải cách phần lớn do “lợi ích nhân khẩu học” – sự gia tăng bất thường của lực lượng lao động, có được là nhờ việc Mao Trạch Đông thúc đẩy người Trung Quốc sinh sản nhiều hơn phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, giờ đây dân số nước này đang tiến gần tới sự sụt giảm nhanh chóng do chính sách 1 con của Đặng Tiểu Bình. Lực lượng lao động đã thu hẹp lại, lần đầu tiên ở mức cao nhất vào năm 2011 theo các số liệu chính thức. Hiện tại, Bắc Kinh khăng khăng cho rằng tổng số dân sẽ đạt mức cao “vào khoảng năm 2030”. Trên thực tế, dân số có lẽ sẽ đạt mức cao nhất trước đó nhiều năm, có thể là ngay trong năm 2020 theo phát biểu công khai của một quan chức cấp cao cách đây vài năm. Bất luận thế nào, dân số Trung Quốc cũng đang trên đà giảm hơn 400 triệu người trong thế kỷ này, phản ánh tình trạng giảm tỷ lệ sinh đáng lo ngại đang diễn ra ở Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và các khu vực khác ở Đông Á.
Việc Bắc Kinh chuyển sang chính sách 2 con, có hiệu lực từ đầu năm 2016, đã không chặn đứng được những xu hướng đáng báo động về nhân khẩu học. Tỷ lệ sinh của Trung Quốc tiếp tục giảm, với 17,23 triệu ca sinh trong năm 2017, thấp hơn con số 17,86 triệu ca sinh trong năm 2016.
Không điều nào trong số này đồng nghĩa với việc các nhà kỹ trị của Trung Quốc không thể làm cho nền kinh tế của họ tăng trưởng trong tương lai. Nhưng chúng nói lên rằng họ sẽ phải tìm cách làm điều đó bất chấp tình trạng giảm tỷ lệ sinh, chứ không phải được tỷ lệ sinh thúc đẩy. Trung Quốc đã cho thấy họ có thể làm giảm số ca sinh – các quan chức tự hào tuyên bố rằng sự cưỡng chế của chính sách 1 con đã ngăn chặn 400 triệu ca sinh – nhưng cho đến nay, họ đã thất bại trong việc gia tăng khả năng sinh sản, nỗ lực gần đây nhất của họ.
Thứ ba, Trung Quốc không còn nhận được sự hỗ trợ của Mỹ, hay thậm chí là của Liên minh châu Âu (EU). Những hành động trục lợi trong thương mại của Bắc Kinh kéo dài nhiều thập kỷ, cũng như những động thái địa chính trị quá hung hăng và hiếu chiến của Tập Cận Bình đã làm thay đổi suy nghĩ ở các thủ đô nước ngoài. Cho tới gần đây, Trung Quốc đã tiến bộ rất nhanh phần lớn vì các chính quyền Mỹ kế tiếp nhau mong muốn nước này thành công. Giờ đây, Mỹ đã trở nên hoặc thù địch, hoặc thờ ơ. Do các chính sách của Mỹ hoặc có ý định làm suy yếu Trung Quốc hoặc không tính đến các lợi ích của Bắc Kinh, nên nền kinh tế và hệ thống tài chính ngày càng cứng nhắc của Trung Quốc đang phải chịu sức ép. Các quốc gia và các nhóm nước khác, đặc biệt là EU, đang theo chân Mỹ thách thức Bắc Kinh.
Cuộc chiến thương mại của Tổng thống Donald Trump – việc áp đặt thuế quan – có khả năng làm rung chuyển nền kinh tế Trung Quốc vốn phụ thuộc vào xuất khẩu. Vấn đề đối với Bắc Kinh là họ đã trở nên phụ thuộc sâu sắc vào thị trường Mỹ. Năm ngoái, thặng dư thương mại hàng hóa của Trung Quốc từ hoạt động xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 88,9% tổng thặng dư hàng hóa của nước này, một con số ấn tượng. Thêm vào đó là thặng dư hàng hóa của Trung Quốc với Mỹ lên đến 375,6 tỷ USD trong năm 2017; rõ ràng Trump đang nắm trong tay những quân bài có giá trị cao.
Cho đến nay, không giống như những người tiền nhiệm của ông trong 40 năm qua, Tổng thống Mỹ đã cho thấy thái độ sẵn sàng sử dụng sức mạnh của Mỹ để làm suy yếu Trung Quốc. Các nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng vì nhiều lý do, đất nước họ không thể duy trì một cuộc đấu tranh lâu dài với khách hàng quan trọng nhất của mình. Việc các thị trường chứng khoán và tiền tệ Trung Quốc đều sụt giảm mạnh trong năm 2018 khi cuộc chiến thương mại bắt đầu là điều không đáng ngạc nhiên.
Tập Cận Bình đã mất đi sự hỗ trợ của nước ngoài, còn trong nước, đơn giản là ông đã lệch nhịp với xã hội. Có lẽ hệ quả quan trọng nhất của 40 năm cải cách kinh tế của Trung Quốc chính là tính hiện đại.
Tập Cận Bình có thể làm theo ý mình vì ông chỉ huy quyền lực. Tuy nhiên, ông lại gặp rắc rối trong việc buộc người ta phải phục tùng. Vì có công cuộc hiện đại hóa nên ông không có khả năng thuyết phục. Hãy nhìn vào cái được gọi là những chiến dịch theo phong cách Cách mạng Văn hóa của Tập Cận Bình, chẳng hạn như nỗ lực của ông trong mùa Hè năm 2018 nhằm thúc đẩy “tinh thần đấu tranh yêu nước” trong giới trí thức. Nhiều người nhạo báng ông, nhưng thực tế quan trọng hơn cả là giới trí thức Trung Quốc – và người dân Trung Quốc – đơn giản là đang không chú ý.
Sam Crane, một giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Williams, đã nói với tạp chí The National Interest khi sắp kết thúc công việc của mình tại Đại học Nhân dân Trung Quốc ở Bắc Kinh: “Những sự so sánh với Cách mạng Văn hóa thực sự không nắm bắt được điều đang diễn ra ở đây lúc này”. Ông nói: “Sau một tháng làm việc trong khuôn viên trường Đại học Nhân dân, có thể nói tôi không hề nhận thấy dấu hiệu gì của việc sùng bái cá nhân Tập Cận Bình. Hơn nữa, ở khắp nơi trong thành phố, những dấu hiệu cho thấy tầm ảnh hưởng của “sức mạnh mềm” của Mỹ – trong sở thích tiêu dùng, trong dòng người xếp hàng bên ngoài Đại sứ quán Mỹ, trong những thông điệp cá nhân được in trên những chiếc áo phông, trong văn hóa của giới trẻ, trong các quán bar và các câu lạc bộ – vẫn còn rất mạnh mẽ.
Sức mạnh của Trung Quốc – và cũng là điểm yếu tột cùng – là người dân Trung Quốc thường không chịu phục tùng, phần lớn vô trách nhiệm và luôn ồn ào. La Kiến Ba, giám đốc Trung tâm chính sách đối ngoại Trung Quốc thuộc Trường đảng trung ương, viết vào tháng 9/2017: “Tôi nhớ lại một chủ đề tranh luận nóng bỏng giữa những người dùng Internet trẻ tuổi: Ai mới thực sự là kẻ thù của Trung Quốc? Có phải là Mỹ không? Hay là Nhật Bản? Nga? Nếu chúng ta bình tĩnh suy nghĩ về mọi việc, thì có lẽ câu trả lời không nằm trong số đó. Kẻ thù của Trung Quốc là chính mình”.
Gordon G. Chang
Biên dịch: Văn Cường
Nguồn tiếng Anh: “Xi Jinping’s Debt Trap“, The National Interest, 16/10/2018.
Nguồn tiếng Việt: Nghiên cứu Biển Đông, via www.nghiencuuquocte.org; 23/11/2018
* Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ”.
(Nghiên cứu Quốc tế)
Không có nhận xét nào