Giáo sư Nguyễn Văn Bông. |
Để
thực hiện thành công sứ mệnh giúp Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến mà vẫn bảo
đảm cho chính quyền Sài Gòn khả năng tự mình đương đầu với địch thủ Cộng
sản, Đại sứ Bunker buộc phải tìm ra một nhân vật người Việt không chỉ
là dân sự mà còn phải đáp ứng chí ít ba tiêu chí: có năng lực chống
Cộng, có uy tín chính trị và nhất là, có chiến lược xây dựng một Việt
Nam Cộng hòa có khả năng “độc lập tác chiến”. Rất nhanh chóng, ông đã
tìm thấy nhân vật đó ở Giáo sư Nguyễn Văn Bông.
Nguyễn
Văn Bông sinh năm 1929, trong một gia đình nghèo, cha là thợ bạc, mẹ là
thợ may. Vì vậy, ông phải làm việc từ lúc mới 12 tuổi để kiếm thêm tiền
đi học. Năm 1949, ông mua một vé tàu hạng ba đi Pháp để du học. Tại
Paris, ông làm bồi bàn tại tiệm ăn La Table du Madarin và kết thân với
một sinh viên Việt Nam khác cũng đang làm bồi bàn tại đây là Nguyễn Ngọc
Huy, người sẽ sát cánh cùng ông trong các hoạt động chính trị sau này.
Sau khi đạt học vị Tiến sĩ Luật và Tiến sĩ Chính trị học vào năm 1960 và
Bằng Giảng dạy đại học (Agrégation) (2) về công pháp vào năm 1962, ông
về nước vào tháng 1/1963 theo lời mời của chính quyền Ngô Đình Diệm để
giảng dạy tại Phân Khoa Luật - Viện Ðại Học Sài Gòn. Trước khi về nước,
ông đã hứa hôn với một nữ sinh viên tên là Lê Thị Thu Vân, người mà ông
sẽ cưới làm vợ vào năm 1964. Sau cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 lật đổ
Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền mới bổ nhiệm ông làm Viện trưởng
Học viện Quốc gia Hành chánh có chức năng đào tạo các công chức trung,
cao cấp.
Về tiêu chí thứ nhất, Giáo sư Bông là một người chống Cộng có bài bản.
Thời
điểm ông về nước, chính quyền Ngô Đình Diệm đang đàn áp dữ dội phe đối
lập với việc truy cứu hình sự nhiều người trong số 18 chính khách chống
Cộng thuộc Khối Tự do Tiến bộ (gọi tắt là Cấp Tiến), còn gọi là Nhóm
Caravelle, Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh… do ủng hộ cuộc đảo
chính ngày 11.11.1960 của nhóm sĩ quan Nguyễn Chánh Thi – Vương Văn
Đông. Ngày 7/7/1963, trước khi quyên sinh để phản đối chính quyền Ngô
Đình Diệm đưa ông ra xét xử, Nguyễn Tường Tam viết trong di chúc: “Sự
bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm
cho nước mất về tay Cộng sản".
Đồng
quan điểm chống độc tài gắn với chống Cộng nêu trên của vị cựu thủ lĩnh
Tự Lực Văn Đoàn, Giáo sư Bông cho rằng sự tồn tại của đối lập chính trị
mới giúp chống được Cộng sản. Trong bài thuyết giảng “Vấn đề đối lập
trong chánh thể dân chủ” nhân lễ khai giảng 1/8 cùng năm tại Trường
Luật, ông nhấn mạnh: “… vì thiếu đối lập mà cộng sản và những phần tử
dân chủ nắm mất chánh nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn,
than phiền của quần chúng. Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chánh
quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận
được thể hiện một cách ôn hòa, để cho những phần tử phiến loạn hết cơ
hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng
cần phải được đặt ra”. Sau bài thuyết giảng này, theo bà Jackie Bông,
Giáo sư Bông đã phải liên tục thay đổi chỗ ngủ trong một thời gian vì sợ
mật vụ của ông Ngô Đình Nhu, Cố vấn của Tổng thống Diệm, hãm hại.
Cũng
bởi tầm quan trọng có tính sinh tử của đối lập chính trị trong cuộc
chiến chống Cộng sản mà Giáo sư Bông đã dành hẳn một chương, Chương IV,
Thiên thứ ba, cho vấn đề này trong giáo trình “Luật Hiến pháp và chính
trị học”. Tuy nhiên theo ông, để có đối lập chính trị thì phải có hệ
thống đa đảng vì hệ thống độc đảng triệt tiêu nó. Ở phần “Chính đảng”
của giáo trình này, ông viết: “Với một chính đảng duy nhất – dù trên
Hiến pháp phân quyền được ấn định – nguyên tắc này chỉ là hư ảo vì Hành
pháp và Lập pháp chỉ là thừa hành mệnh lệnh của trung ương đảng bộ.
Chính phủ gồm toàn nhân viên cao cấp của đảng, còn Quốc hội là cán bộ
của đảng chỉ biết hoan hô. Đại hội của đảng có một tầm quan trọng gấp
trăm lần phiên họp của Quốc hội. Đối lập – lẽ dĩ nhiên – không thành vấn
đề. Vì chỉ có một chính đảng được phép công khai hoạt động. Không những
không có chính đảng đối lập mà cũng không có đối lập trong chính đảng
duy nhất ấy”. Tóm lại, Giáo sư Bông cổ súy hệ thống đa đảng cũng là nhằm
chống Cộng sản.
GS Nguyễn Văn Bông (phía trước) GS Nguyễn Văn Tương,(bên phải) và GS Tạ Văn Tài đên trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. |
Đối
tượng tác động của ông không chỉ là sinh viên mà còn, và nhất là, bản
thân thể chế chính trị. Đầu tháng 3 năm 1967, ông đã cho xuất bản thành
sách giáo trình nói trên với cùng tiêu đề nhằm ảnh hưởng trực tiếp đến
việc soạn thảo Hiến pháp cho Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa. Kết quả là Hiến
pháp được ban hành sau đó 1 tháng đã quy định “Chính Đảng và Đối Lập”
tại Chương VII.
Vẫn
theo Giáo sư Bông, để chống Cộng thành công, chính quyền phải lôi kéo
được dân đi với chính quyền. Trong bài “Vai trò chánh đảng và cuộc sinh
hoạt chính trị tại Việt Nam Cộng hòa”, ông viết: “Đa số quần chúng ở với
ta nhưng vẫn chưa theo ta. Trong lúc đó, ở vùng Cộng sản kiểm soát sự
tham gia của dân chúng vào guồng máy đấu tranh là một điều bắt buộc,
dưới hình thức này hay hình thức khác, với mọi phương tiện và thủ đoạn.
Cộng sản huy động mọi tầng lớp nhân dân cùng chiến đấu với họ. Đối với
Cộng sản bất cứ ai cũng không thể đứng ngoài cuộc tranh chấp. Và giải
pháp của vấn đề không phải chỉ có phát gạo, phát đường, mà phải còn đặt
nặng vấn đề chính trị, củng cố lập trường, cùng ý thức hệ…Xây dựng nông
thôn, tranh thủ nhơn tâm, trước hết là xậy dựng tư tưởng chính trị,
tranh thủ quần chúng chấp nhận xã hội ta, chế độ ta”. Và để lôi kéo được
dân, Giáo sư Bông chủ trương “chính trị hóa sinh hoạt” của bộ máy chính
quyền, biến từng viên chức chính quyền thành “cán bộ chính trị”.
Cũng
cần nói thêm rằng phương pháp “dân vận” này của Giáo sư Bông hoàn toàn
khớp với mục tiêu “bình định nông thôn” (pacification) bằng phương thức
tình báo của người đứng đầu CORDS. Thực vậy, Komer tổ chức các “Đoàn cán
bộ xây dựng nông thôn" được trang bị vũ khí nhẹ, còn gọi là “Đội quân
áo đen” và thực hiện "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với dân, nhất
là với những nhà có người tập kết ra Bắc hoặc thoát ly theo Cộng sản,
để phát hiện và tiêu diệt “Cộng sản nằm vùng”. Cũng như vậy, phương pháp
này của Giáo sư Bông hoàn toàn phù hợp với “chiến tranh toàn diện” gồm
cả hành quân, bình định và gia tăng năng lực của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa của Đại tướng Abrams.
Về
tiêu chí thứ hai, Giáo sư Bông có một loạt lợi thế để tập hợp lực lượng
và tạo đoàn kết cả trong và ngoài chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Là
Giám đốc Học viện quốc gia hành chính, chắc chắn ông có được sự ủng hộ
mạnh mẽ từ các học trò của ông đang và sẽ nắm giữ những chức vụ chủ chốt
trong bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Là
một trí thức nổi tiếng chống độc tài và cổ súy cho đảng chính trị và hệ
thống đa đảng, điều được thể hiện rõ qua các tác phẩm đã dẫn ở trên của
ông, Giáo sư Bông dễ có được sự hợp tác của các đảng phái hơn bất cứ ai
khác.
Sự
liêm khiết của Giáo sư Bông cũng là một thế mạnh nữa của ông trong bối
cảnh chính quyền Sài gòn bị ngay người Mỹ nhận định tham nhũng trầm
trọng (3). Ông Hoàng Đức Nhã cũng khẳng định: “Không có gì phải nghi vấn
về sự trong sạch của Giáo sư Bông”. Phẩm chất này của ông hẳn sẽ giúp
xây dựng được một chính quyền “sạch” hơn để tranh thủ dân chúng một khi
ông tham gia Chính phủ.
Tóm
lại, uy tín của Giáo sư Bông chẳng những có thể mang lại cho Việt Nam
Cộng hòa tính chính danh trong mắt của đa số người dân miền Nam mà quan
trọng hơn, có thể giúp chính thể này chiến thắng trong viễn cảnh tổng
tuyển cử để định ra chính quyền tương lai cho Nam Việt Nam mà Hội nghị
Paris đang bàn tới.
Về
tiêu chí thứ ba, Giáo sư Bông đã tìm ra phương thức khả dĩ giúp Việt
Nam Cộng hòa trụ vững trong cuộc chiến một khi Mỹ rút quân. Đó chính là
công tác chính trị.
Vẫn
trong bài “Vai trò chánh đảng và cuộc sinh hoạt chính trị tại Việt Nam
Cộng hòa”, ông viết: ”Chính trị hóa sinh hoạt còn có nghĩa nung đúc tinh
thần chiến đấu…Chỉ có tinh thần mới có thể giúp ta tự lực, tránh cho ta
thái độ ỷ lại vào người. Nếu ngoại viện là điều cần thiết trong giai
đoạn hiên tại thì chính vì ngoại viện ấy mà chúng ta càng phải mau mau
phát động ý chí tự lực, tự cường hầu có thể chịu đựng khi không còn
ngoại viện”.
Cũng
như vậy, trong bài “Mặt trận quân sự” viết trong bối cảnh Hội nghị
Paris về Việt Nam đã được tiến hành, ông chủ trương “phát triển triệt để
chiến tranh chính trị trong quân đội” với giải thích: ”Thực vậy, sự rút
quân của đồng minh sẽ tạo một khủng hoảng tâm lý quan trọng cho quân
đội Việt Nam. Ngành tâm lý chiến phải đánh tan mặc cảm bị bỏ rơi, thái
độ ỷ lại, tinh thần chủ bại, tâm lý ngạo khó, ngán địch, đồng thời phát
huy mạnh mẽ ý chí tự lực, tự cường, tự túc, nâng cao tinh thần tự vệ và
đoàn kết với nhơn dân để tiêu diệt địch trong nhơn dân”.
Nói
cho đúng, Bunker có được Giáo sư Bông như một lựa chọn hoàn hảo cho
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” chính là nhờ người tiền nhiệm:
Henry Cabot Lodge. Thực vậy, vị cựu Thượng nghị sĩ bang Massachusetts
này đã phát hiện ở Giáo sư Bông một chính khách có bản lĩnh, và hơn thế
nữa, một thủ lĩnh đối lập tiềm tàng qua bài thuyết giảng “Vấn đề đối lập
trong chánh thể dân chủ” của ông. Bảo trợ và gây dựng vị thế cho vị
giáo sư Trường Luật này vì vậy là chuyện không phải bàn cãi đối với
Cabot Lodge, vốn được Tổng thống Kennedy cử sang Nam Việt Nam để chấm
dứt chế độ Ngô Đình Diệm đang gây phương hại nghiêm trọng cho cuộc chiến
chống Cộng sản của Mỹ tại đây (4). Điều này giải thích vì sao Hội đồng
Quân nhân Cách mạng đã bổ nhiệm Giáo sư Bông làm người đứng đầu Học viện
Quốc gia Hành chánh ngay sau cuộc đảo chính sát hại ông Diệm cùng bào
đệ là ông Nhu mà Cabot Lodge là người trực tiếp đứng đằng sau.
Sự
bảo trợ chính trị này không hề kín đáo, ngược lại là khác. Bà Jackie
Bông kể: “Đại sứ Cabot Lodge luôn mời anh Bông và tôi dự các buổi tiếp
tân của Đại sứ quán, và nhất là dành cho tôi ghế danh dự, bên tay mặt
ông, trong khi anh Bông tuyệt nhiên không phải là quan chức cao cấp. Ông
ấy còn đến đám tang Khánh em trai tôi, chỉ là một trung úy tử trận”.
Cù Huy Hà Vũ
(Còn tiếp)
-------------
Chú thích
(2)
"Agrégation" là bằng cần có để giảng dạy Đại học ở Pháp, người có bằng
này được gọi là “agrégé”. Ngược lại, “Capes” (Certificat d’Aptitude au
Professorat de l’Enseignement du Second degré) là bằng cần có để giảng
dạy trung học. Trong hệ thống giáo dục miền Nam Việt Nam trước 1975,
“Agrégation” được dịch là “Thạc sĩ”. Trong hệ thống giáo dục Việt Nam
hiện nay, “Thạc sĩ” là học vị trên Cử nhân và dưới Tiến sĩ, tương đương
“Maitrise” (Pháp) hay Master (Anh, Mỹ). Để tránh nhầm lẫn, theo tác giả
bài viết này, “Agrégation” cần được dịch là “Bằng Giảng dạy đại học”.
Cũng như vậy, “Capes” cần được dịch là “Bằng Giảng dạy trung học”.
(3)
Theo nhà báo Mỹ William J. Lederer, kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam là nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa; hàng tỷ
USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ bị quan chức tham ô rồi bán ra
chợ đen.
(4)
Tổng thống Ngô Đình Diệm không chỉ cai trị theo lối gia đình trị, đàn
áp Phật giáo gây phẫn nộ lớn cả trong chính quyền và quân đội lẫn ngoài
xã hội mà còn muốn độc lập với Mỹ và thỏa hiệp với Cộng sản. Khi Đại sứ
Frederick Nolting đề nghị để cho Hoa Kỳ chia sẻ những quyết định về
Chính trị, Quân sự và Kinh tế, ông Diệm trả lời rằng "chúng tôi không
muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ". Theo ông Cao Xuân Vỹ, phụ tá
của Cố vấn Ngô Đình Nhu, vào tháng 2 năm 1963, ông Nhu mượn cớ đi săn
cọp ở khu rừng Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy, để bí mật gặp Phạm Hùng, ủy
viên Bộ chính trị Đảng Lao Động Việt Nam. Thông tin này là có cơ sở vì
Phạm Hùng giữ chức Trưởng Ban Thống nhất thuộc Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam (từ 1958 đến 1966), cơ quan này có chức năng nghiên cứu và
triển khai thống nhất hai miền Bắc-Nam Việt Nam bằng phương pháp hòa
bình
* Tác giả là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam.
(VOA)
Không có nhận xét nào