Bộ Quốc Phòng Mỹ đã công bố chiến
lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của nước này vào ngày 1/6/2019. Xác định
liên minh song phong và cơ chế hợp tác đa phương giữa Washington với các
quốc gia khác nhau về kinh tế, an ninh và hàng hải.
Tàu USS Wasp ở Biển Đông |
Bài
dịch trong bối cảnh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, Mark Thomas Esper sẽ
đến Việt Nam, trong chuyến công du chính thức đến một số quốc gia châu Á
tới đây để thảo luận về quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng.
Bộ
Quốc Phòng Mỹ đã công bố chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của nước
này vào ngày 1/6/2019. Xác định liên minh song phong và cơ chế hợp tác
đa phương giữa Washington với các quốc gia khác nhau về kinh tế, an ninh
và hàng hải.
Mỹ
sẽ dùng vấn đề Biển Đông như một chiến lược ‘tán tỉnh’ các quốc gia
trong khu vực, hướng tới xây dựng một liên minh quân sự chống Trung Quốc
trong khu vực. Về chiến thuật, Mỹ tăng cường sức mạnh đơn phương hoặc
chung trong khuôn khổ chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Chiến
lược Ấn Độ - Thái Bình Dương nhằm cân bằng sự trỗi dậy hàng hải của
Trung Quốc trong khu vực, duy trì sức mạnh vượt trội của Washington.
Chiến lược này gián tiếp tạo ra quá trình ghanh đua dữ dội giữa Trung
Quốc với các đối tác và đồng minh của Mỹ.
Có thể hiểu cuộc chạy đua này theo những hướng sau:
Đầu
tiên, tự do hàng hải do Mỹ tiến hành tại vùng tranh chấp Biển Đông sẽ
đưa lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ (USCG) thành phương tiện mới giúp nước
này ngăn chặn sự trỗi dậy của lực lượng phòng vệ hàng hải của Bắc Kinh
và các hoạt động quân sự khác.
Từ
năm 2017, dưới sự điều hành của Tổng thống Donald Trump, quân đội Mỹ đã
gia tăng tần suất, phạm vi và cường độ cho thực thi tự do hàng hải
(FONOPS) ở mức 15 lần. Riêng 2019, Washington hai lần điều tàu khu trục,
đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bất chấp sự phản ứng gay gắt từ
Trung Quốc. Chưa kể, máy bay ném bom chiến lược B-52 luôn quần thảo trên
bờ biển Đông, ít nhất 16 lần, tăng 4 lần so với năm 2017.
Mỹ
trong khuôn khổ chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương đang thách thức và
tạo áp lực cho Bắc Kinh trong lĩnh vực an ninh. Washington vừa có thể
tiến hành các “hoạt động chung” với giới đồng minh thân cận như Úc, Anh,
Nhật, đồng thời thúc đẩy hoạt động thực thi pháp luật của các lực lượng
phòng vệ hàng hải cảu một số nước trọng điểm như Philippines, Việt Nam,
hay Malaysia.
Thứ
hai, Mỹ tăng tốc xây dựng các căn cứ quân sự, triển khai sức mạnh ở khu
vực xung quanh Biển Đông nhằm kiềm hãm ảnh hưởng quân sự của Bắc Kinh.
Theo
Chiến lược nêu trên, quân đội Mỹ có 2.000 máy bay, 200 tàu chiến và tàu
ngầm các loại, 370.000 nhân viên quân sự tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình
Dương. Mỹ sẽ tăng cường 110 máy bay F4, F5 và 400 tên lửa không đối
không tầm trung, 10 tàu khu trục gắn tên lửa đạn đạo, thực hiện chiến
lược chiến tranh trên biển và chống ngầm.
Biển
Đông và các khu vực lân cận trở thành vùng trung tâm của Chiến lược, và
chắc chắn, các hoạt động quân sự cũng như căn cứ sẽ được Mỹ xây dựng
tại đây.
Thứ
ba, các cuộc tập trận quân sự song phương và đa phương do Mỹ dẫn đầu sẽ
gia tăng, và khả năng quân đội Mỹ tiến vào các khu vực tranh chấp ở
Biển Đông là không thể loại trừ.
Thống
kê từ Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương (USINDOPACOM), đã có hơn 150
cuộc tập trận quân sự song phương và đa phương hàng năm. Trong năm 2014
và 2015, con số này vượt quá 160 và 175, tương ứng. Một số cuộc tập trận
chung điển hình như RIMPAC, CARAT,…
Trong
bối cảnh Mỹ tăng cường phạm vi và tần suất của các cuộc tập trận quân
sự chung của nước này với các quốc gia khu vực, thì Lầu Năm góc cũng lo
ngại các quốc gia ngoài khu vực có thể bị loại trừ bởi Bộ quy tắc ứng xử
ở Biển Đông (COC) trong các tập trận tương lai. Do đó, Mỹ sẽ giữ các
cuộc tập trận chung ở vùng biển tranh chấp (Biển Đông) như một chuyện đã
rồi trước khi COC có hiệu lực.
Thứ
tư, các quốc gia thành viên khác sẽ theo Mỹ tham gia cuộc chạy đua địa
chính trị ở Biển Đông để tối đa hóa lợi ích của các nước trong quá trình
hình thành các quy tắc và thiết lập trật tự ở Ấn Độ-Thái Bình Dương. Và
sự can thiệp vào Biển Đông từ Nhật, Úc, Ấn, Anh, Pháp sẽ tiếp tục làm
leo thang cạnh tranh địa chính trị phức tạp trong khu vực.
Với
Nhật, nước này sẽ duy trì sự hiện diện quân sự và bán quân sự ở Biển
Đông, không loại trừ triển khai lực lượng Cảnh sát biển của nước này và
thiết lập căn cứ quân sự ở các nước xung quanh.
Với
Úc, nước đang thụ hưởng cảm hứng từ chính sách Ấn Độ - Thái Bình Dương
của Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường ‘kề vai sát cánh’ với Washington trong
tương lai.
Với
Ấn Độ, New Delhi tin rằng, Chiến lược mà Mỹ đề ra phù hợp với Chính
sách Hướng Đông của nước này. Do đó, Ấn kỳ vọng sẽ tham gia đầy đủ trong
mảng chiến lược này, từ kinh tế, ngoại giao, đến quân sự. Và nhân danh
hợp tác an ninh hàng hải, New Delhi cũng sẽ tham gia các cuộc tập trận
quân sự có do Mỹ, Nhật Bản và Úc tiến hành ở các vùng biên Biển Đông.
Thứ
năm, các cuộc tham vấn về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) phải đối
mặt với sự can thiệp do mô hình địa chính trị thay đổi và ý định của các
quốc gia trong và ngoài khu vực nhằm tối đa hóa lợi ích an ninh của mỗi
nước. Không nên đánh giá quá cao vai trò của một COC hiệu quả trong
việc đảm bảo trật tự an ninh ở Biển Đông.
Một
trong những mục tiêu chính của Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương đó là
thiết lập một trật tự khu vực dựa trên luật lệ mà Mỹ sẽ giữ ảnh hưởng
thống trị. Mục tiêu này mâu thuẫn trực tiếp với Trung Quốc và các quốc
gia thành viên ASEAN, những quốc gia dự định lấy COC như một hướng dẫn
để thiết lập một trật tự khu vực dựa trên sự cởi mở và bao quát. Lý do,
COC kỳ vọng điều chỉnh các hoạt động quân sự, tài nguyên và thực thi
pháp luật hàng hải trong các khu vực tranh chấp. Và trong trường hợp nào
đó, Mỹ đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về các quy định liên quan tập trận
quân sự chung và khai thác dầu khí do các nước bên ngoài khu vực Biển
Đông thực hiện. Mặt khác, do những nỗ lực và ảnh hưởng của Mỹ, một số
quốc gia thành viên ASEAN như Việt Nam và Philippines có thể lên tiếng
trong các cuộc tham vấn COC nhằm bảo vệ lợi quyền ở Biển Đông hoặc phải
thực hiện một lựa chọn sau khi xem xét chiến lược về sự cân bằng của các
nước lớn.
Do
đó, Washington muốn xây dựng các quy tắc mới ở Biển Đông dựa trên tư
duy của họ, không chỉ làm xáo trộn quá trình tham vấn COC mà còn có thể
tạo ra sự khác biệt và mâu thuẫn mới giữa các quốc gia liên quan đến Bộ
quy tắc này. Vì thế, nên hướng đến COC như cơ hội để xây dựng một cơ chế
hợp tác an ninh hàng hải dựa trên luật lệ và cởi mở ở Biển Đông, cũng
như thiết lập các quy tắc và trật tự hiệu quả dựa trên sự cân nhắc đầy
đủ về lợi ích và yêu sách của tất cả các bên trong và ngoài khu vực.
Mặc
dù hiện tại có các cuộc đối thoại và cơ chế hợp tác về an ninh như Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM +)
và Cuộc tập trận quân sự đa phương ASEAN ở khu vực Biển Đông, nhưng các
cơ chế này nói chung lỏng lẻo. Không chỉ thiếu cơ chế nghiêm ngặt, mà
còn không được sử dụng để loại bỏ những nghi ngờ an ninh lẫn nhau giữa
các quốc gia trong khu vực. Do đó, sự phối hợp an ninh trong khu vực này
vẫn còn ở mức tương đối thấp.
(VNTB)
Không có nhận xét nào