Tin về cái chết của 39 người Việt,
được tìm thấy trong một xe thùng chở hàng đông lạnh tại khu công nghiệp ở
Essex, Vương quốc Anh đã gây xúc động và được dư luận thế giới quan tâm
trong hai tuần qua.
Phạm Thị Trà My và Nguyễn Đình Lượng là hai người được cho là nằm trong số 39 nạn nhân |
Cùng
lúc nhiều người đặt câu hỏi vì sao Việt Nam, nay là đất nước đã có
nhiều tiến bộ về kinh tế trong một phần tư thế kỷ qua để trở thành quốc
gia có thu nhập bình quân ở mức trung bình cao, mà nhiều người vẫn rời
quê hương bằng mọi cách bất chấp nguy cơ bỏ mạng xứ người.
Khi
phải quyết định rời bỏ quê hương dù bằng con đường hợp pháp, hay tìm
đường nhập cư bất hợp pháp, một người luôn cân nhắc giữa những yếu tố
thúc đẩy và yếu tố lôi cuốn, gọi là "push and pull factors".
Những
năm thập niên 1980 tôi làm việc trong các trại tị nạn ở Đông Nam Á, qua
tiếp xúc với nhiều thuyền nhân, nguyên nhân họ ra đi gồm: sợ bị đàn áp
bắt giam, tránh phải đi bộ đội để khỏi chết dưới tay Khmer Đỏ bên
Campuchia, bị phân biệt đối xử vì thuộc gia đình cựu quân cán chính Việt
Nam Cộng hoà, vì là người gốc Hoa, hoặc vì tôn giáo; hay ra đi để được
học hành để có cuộc sống tốt đẹp hơn... Đó là những yếu tố thúc đẩy
nhiều người ra đi.
Yếu
tố lôi cuốn là thông tin từ thân nhân, bạn bè vượt biên vượt biển thành
công. Họ được định cư, được trợ cấp tài chính để đi học, hay có việc
làm, mua được xe ôtô trong một thời gian ngắn và còn có tiền gửi về giúp
gia đình. Ở các nước Mỹ, Canada, Úc, Hà Lan, Anh quốc nếu gia đình có
con nhỏ mà thu nhập thấp còn được chính phủ trợ cấp mọi mặt.
Qua
hình ảnh đứng bên chiếc xe ôtô, qua những thùng quà hay đôla gửi về
giúp gia đình có đời sống khá hơn, xây được nhà mới cho bố mẹ, đó là
những sự hấp dẫn, lôi cuốn người còn ở lại muốn rời bỏ quê hương.
Người
vượt biển chắc còn nhớ câu nói trước khi từ biệt người thân: "Một là
con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá". Tuy chỉ một phần
may mắn so với hai phần rủi ro, có thể tử nạn, nhưng cả triệu người đã
ra đi bất chấp sóng dữ và hải tặc.
Bao
nhiêu người đã vùi thây trên biển. Người viết đã nghe nhiều câu chuyện
thảm thương trên biển và trực tiếp biết chục người, là con em của thân
nhân và bạn bè đã ra đi mà không có tin tức cho đến nay. Cao ủy Tị nạn
Liên Hiệp Quốc ước tính số người chết trên biển lên đến hàng trăm nghìn.
Tại
Quận Cam, California có một đài tưởng niệm thuyền nhân tử nạn với nhiều
nghìn danh tính do thân nhân cung cấp được khắc trên những bia đá.
Làn sóng vượt biển nay không còn.
Việt
Nam sau hơn phần tư thế kỷ đổi mới kinh tế đã có nhiều tiến bộ, mức
sống của người dân được nâng cao gấp nhiều lần so với thời bao cấp,
nhưng nhiều người vẫn muốn ra đi.
Ngày
nay, sự kiện người dân di cư từ một quốc gia này đến một quốc gia khác
sinh sống là bình thường vì mỗi năm có cả trăm triệu di dân trên thế
giới.
Việt Nam chỉ chiếm phần nhỏ
Số
người bỏ quê hương ra đi đông nhất là từ Ấn Độ, Mexico, Nga, Trung
Quốc, Bangladesh, Pakistan, Ukraine, Philippines với vài triệu mỗi năm,
theo báo cáo năm 2018 của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM).
Cũng
theo số liệu của IOM, số người Việt đi định cư ở nước ngoài không
nhiều. Trong thời gian từ 1990 đến 2015 có 2,5 triệu người Việt di cư ra
nước ngoài, trung bình một năm có 100 nghìn người.
Những quốc gia đón nhận nhiều di dân nhất là Mỹ, Đức, Nga , Ả-rập Saudi, Anh quốc.
Đông
nhất chọn Hoa Kỳ vì nơi đây có chính sách di dân cởi mở, có hệ thống
giáo dục đại học đứng hàng đầu thế giới, có nhiều công việc và nhiều cơ
hội cho di dân tiến thân.
Di
dân thành công ở Mỹ có nhiều tỉ phú, như Romesh Wadhwani (Symphony
Technology Group), Douglas Leone (Sequoia Capital), Thomas Peterffy
(Interactive Brokers Group), Andrew Cherng (Panda Express), Do Won Chang
và Jin Sook (Forever 21), Elon Musk (Tesla), Sergey Brin (Google),
Micky Arison (Carnival Cruises) là những thí dụ.
Trong
hơn bốn mươi năm qua, người Việt đến Mỹ lập nên sự nghiệp trị giá cả tỉ
đôla hay vài trăm triệu đôla có Hoàng Kiều, Chinh Chu, Lê Văn Chiêu,
Trần Dũ, Triệu Phát, David Dương, Charlie Quy Ton.
Trong
mọi ngành nghề đều có người Việt tài giỏi. Quân đội Hoa Kỳ có các tướng
Lương Xuân Việt, Nguyễn Từ Huấn; truyền thông có Betty Nguyễn, Leana
Nguyễn, Tini Trần; chính trường có Joseph Cao Quang Ánh, Stephanie
Murphy (Đặng Thị Ngọc Dung), Trần Thái Văn, Janet Nguyễn, Hubert Võ,
Trâm Nguyễn, Kathy Trần, Dean Trần, Bee Nguyễn; văn học có Nguyễn Thanh
Việt, Ocean Vương, Andrew Lâm, Thi Bùi.
Ông
David Dương những năm đầu ở Mỹ đi thu lượm thùng giấy, trước khi thành
lập công ty xử lý rác California Waste Solutions. Ông Lê Văn Chiêu từng
đi bán thức ăn trưa bằng xe (lunch truck) trước khi có chuỗi cửa hàng
bánh mì Lee's Sandwich. Ông Charlie Quy Ton từng là thợ làm đẹp móng tay
trước khi mở hàng trăm tiệm Regal Nails trong các trung tâm thương mại.
Đón
nhiều di dân nhất là California. Tiểu bang với 40 triệu dân và có nền
kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới nếu California là một quốc gia riêng
biệt.
Người Việt cũng chuộng California, vì thế trong số 1,3 triệu người Việt ở Mỹ, 40% sinh sống ở California.
Một
nghiên cứu của hai giáo sư Karl Jackson từ U.C. Berkeley và Jacqueline
Desbarats từ U.C. Irvine vào đầu thập niên 1980 cho thấy nhiều người
Việt đã di chuyển từ các tiểu bang khác về California trong đợt di cư
thứ nhì sau năm 1975. Họ chọn California vì những lý do: có trợ cấp an
sinh xã hội tốt, dễ tìm được việc làm, khí hậu tốt, có đông đồng hương,
dễ tìm thức ăn Việt và California gần với quê hương Việt Nam hơn.
Người
Việt đến Mỹ vào thập niên 1980, đúng lúc công nghệ điện tử bùng phát
nên "chồng tách, vợ ly" (technician và assembly line) làm dây chuyền
trong các hãng điện tử đã đem lại cuộc sống sung túc ổn định cho nhiều
gia đình chỉ sau chừng vài năm.
Qua
thập niên 1990 nhiều công ty bắt đầu chuyển ra nước ngoài thì chồng đi
bỏ báo hay đi cắt cỏ, vợ làm thợ móng tay, vài năm sau cũng có thể làm
chủ một cơ sở thương mại. Nghề làm "lunch truck" đi bán thức ăn trưa
cũng có thu nhập khá để hai vợ chồng có thể mua được nhà sau vài năm.
Những
ai muốn theo đuổi con đường học vấn cũng có nhiều cơ hội và trường để
chọn theo học, từ hơn một trăm đại học cộng đồng, 23 đại học tiểu bang
đến 10 trường trong hệ thống University of California đứng đầu thế giới,
là nơi để nhiều người thoả mãn ước mơ có nghề chuyên môn như luật sư,
kỹ sư, bác sĩ, khoa học gia, chuyên viên kinh tế, tài chính.
Muốn làm lao động trí óc "cổ trắng - white collar" hay lao động tay chân "cổ xanh - blue collar" California có rất nhiều cơ hội.
Ngay
cả những người nhập cư trái phép vẫn có thể đi học. Hai mươi lăm năm
trước cử tri California bỏ phiếu chấp thuận dự luật 187 không cho người
nhập cư bất hợp pháp được hưởng các dịch vụ y tế và giáo dục. Những tổ
chức bảo vệ di dân đã kiện và sau đó hầu như toàn bộ luật này đã bị vô
hiệu lực bởi những phán quyết của toà. Di dân không giấy tờ hợp pháp ở
California nay vẫn được đi học từ lớp 1 đến lớp 12. Lên đại học có thể
được trợ giúp tài chính.
California
có nhiều việc ở những nông trại, thu hút di dân từ Nam Mỹ. Các dịch vụ
làm nhà hàng, siêu thị, sơn móng tay, cắt cỏ, dọn dẹp cho các nhà thầu
xây cất thường hấp dẫn người châu Á. Với di dân không phép, làm những
công việc này tuy thu nhập không cao, cuộc sống không giàu, nhưng so với
đời sống ở quê nhà vẫn khá hơn và còn có thể gửi tiền về giúp gia đình.
Sống
không hợp pháp tại Mỹ, nhiều di dân tìm cách hợp thức hoá qua kết hôn
để có thẻ xanh, rồi được thành công dân Mỹ. Nếu không được như thế,
nhiều người hy vọng một ngày nào đó sẽ được ân xá để trở thành cư dân
hợp pháp như đã có chính sách dưới thời chính quyền Reagan trong thập
niên 1980 và chính quyền Clinton trong thập niên 1990.
Đó
là lý do mà nhiều người Việt, là du học sinh, du khách hay công nhân
xuất khẩu lao động, khi đã vào được Mỹ và nếu có cơ hội hầu hết đều tìm
cách ở lại.
Chính
sách mới về di dân của chính quyền Trump trong ba năm qua có làm giảm
số người nhập cư vào Mỹ, nhưng môi trường giáo dục và thị trường lao
động vẫn cho di dân nhiều cơ hội để thành công vì lúc này mức thất
nghiệp tại Mỹ đang thấp nhất trong nửa thế kỷ qua.
Với
thảm kịch 39 người Việt chết trong thùng xe hàng đông lạnh ở Anh, khi
quyết định ra đi chắc chắn họ và người thân trong gia đình cũng đã phải
cân nhắc giữa thành công và rủi ro trước khi quyết định bỏ ra một số
tiền lớn để được dẫn đi.
Cuộc
sống của người nhập cư bất hợp pháp ở Anh cũng giống như ở Hoa Kỳ. Một
khi đã đến nơi họ có thể tìm được việc làm, không chỉ đủ nuôi sống bản
thân mà còn giúp được gia đình.
Khi
thông tin về cái chết của những nạn nhân được truyền đi qua mạng xã
hội, kèm lời nhắn của một cô gái gửi cho bố mẹ ít phút trước khi chết vì
ngộp thở, một số lời bình đã quy lỗi cho cô, cho những người cùng đi
vượt biên và chê trách họ chọn con đường đến Anh làm những chuyện phi
pháp như trồng cỏ, làm "gái" để mong chóng giàu.
Như
nhiều người cùng làng xã đã qua được đến đó, đi làm và gửi tiền về cho
gia đình xây những ngôi nhà đẹp gọi là làng tỉ phú giữa quê nghèo.
Nhập cư lậu hay buôn người?
Vụ việc này có phải là buôn người hay chỉ là đưa người nhập cư lậu vào nước Anh mà thôi?
Tiến
sĩ Nguyễn Đình Thắng, chủ tịch của Boat People SOS nhận định: "Đây là
vụ buôn lậu người tức là đưa người đi lậu có trả tiền. Nếu sống sót, có
thể một số sẽ trở thành nạn nhân buôn người."
Hôm 2/11/2019 ông có một bài viết trên tạp chí Mạch Sống phân tích về vấn đề này:
"Thường
thì những người nhập cảnh lậu dễ trở thành nạn nhân buôn người vì tình
trạng cư trú bất hợp pháp, vì không có chọn lựa về sinh kế, vì các khoản
nợ lớn ở quê nhà, hay vì bị khống chế bởi băng đảng tội phạm. Tuy nhiên
cũng có những người nhập cư lậu không bị rơi vào tình cảnh bị bóc lột
sức lao động và do đó họ không là nạn nhân buôn người. Trường hợp của 39
nạn nhân chết trong container là buôn lậu người. Nếu sống, thì có những
người có thể trở thành nạn nhân buôn người."
Tổ
chức Boat People SOS trong hơn ba thập niên qua đã giải cứu cho nhiều
nghìn người lao động Việt khỏi cảnh bị bóc lột ở đảo American Samoa, ở
Jordan, hay đưa ra ánh sáng những đường dây buôn lậu người từ Việt Nam
sang Nga.
Tiến
sĩ Thắng viết: "Mỗi đường dây buôn lậu người là lãnh địa của một nhóm
xã hội đen có sự móc nối và ăn chia với các quan chức địa phương để dễ
dàng đưa người lậu xuyên biên giới. Họ cũng sử dụng cò và môi giới để
tìm các con mồi. Họ chắp nối cơ hội với những nhóm buôn lậu người ở từng
quốc gia tạo nên một xâu chuỗi dẫn từ quốc gia khởi thuỷ đến quốc gia
mục tiêu."
Đó cũng là hành trình mà 39 nạn nhân đã đi qua và thật không may trên đoạn đường cuối cùng trước khi đến đích họ đã tử nạn.
Còn
theo cô Vương Ngọc Diệp, 39 nạn nhân đã bị nhóm tổ chức vượt biên lừa
để họ tưởng là nhập cư vào Anh không khó khăn lắm và có thể làm ra tiền
dễ dàng, đâu ngờ gặp nạn chết người.
Cô
Diệp hiện là chủ tịch của Pacific Links Foundation có trụ sở ở
California với nhiều chương trình chống nạn buôn người tại Việt Nam và
trên thế giới.
Khi
thấy có bình luận cho rằng 8 cô gái mệnh yểu tìm đường vào nước Anh để
bán thân lấy tiền, cô Diệp tỏ ra bất bình phát biểu: "Có ai bỏ cả mấy
chục nghìn đôla để đi làm gái ở nước ngoài không?"
Nêu câu hỏi liệu người của chính quyền địa phương có liên quan đến việc tổ chức đưa người đi vượt biên, cô Diệp cho biết:
"Khi
người đi lậu, tiền thuế sẽ không thu về được nên về chính sách mà nói,
chính quyền sẽ không có lý do để ủng hộ việc đi vượt biên này. Họ chỉ
quan tâm đến những người đi xuất khẩu lạo động chính thức, vì đó là
nguồn tài chính về thuế."
Còn ảnh hưởng của ô nhiễm biển do Formosa gây ra cách đây ba năm, cô Diệp nhận định:
"Tôi
nghĩ việc này không ảnh hưởng nhiều đến cư dân trong vùng trong quyết
định bỏ quê ra đi, trả một số tiền lớn như vậy. Từ nhiều thập kỷ qua đã
có nhiều người dân đi lao động ở nước ngoài.
Nghệ
An là tỉnh có nhiều người đi xuất khẩu lao động nhất Việt Nam. Đương
nhiên là có một số người vì biểu tình chuyện Formosa mà không ở lại Việt
Nam được. Rất đông người trong diện này đã đi sang Thái Lan và xin tị
nạn ở đó."
Khi
đọc được những lời cuối của Trà My gửi về cho gia đình, với lời xin lỗi
bố mẹ, cô Diệp xúc động nói: "Thử tưởng tượng nỗi nhục, xấu hổ của
những người thất bại và bị trục xuất về lại Việt Nam. Điều này khiến cho
họ khó có cách nào mở miệng để kể cho mọi người nghe về thực trạng của
cuộc sống lao động bên Anh."
Với
cái chết của 39 người Việt trên đường vượt biên. Họ là những nạn nhân
được tìm thấy. Nhưng còn bao nhiêu người Việt nữa đã mất tích hay chết
bờ, chết bụi ở một nước châu Âu nào đó mà chỉ có gia đình nạn nhân biết,
còn công luận thì không.
Như
bao nhiêu người Việt khác đã vùi thây trong lòng biển. Trong mọi thảm
kịch như thế, chính phủ Việt Nam không bao giờ nhận họ có phần trách
nhiệm trong đó.
Khi
có làn sóng thuyền nhân ra đi từ Việt Nam vào cuối thập niên 1970, dư
luận quốc tế biết đến thảm cảnh qua phóng sự do phóng viên Ed Bradley
thực hiện từ trại Bidong và được chiếu trong chương trình "60 Minutes"
trên kênh truyền hình CBS.
Những
nhà làm chính sách, giới chức tị nạn của Liên Hiệp Quốc lên tiếng kêu
gọi thế giới giang tay đón nhận người tị nạn Việt Nam. Cùng lúc chính
phủ Hà Nội cũng đã chịu nhiều áp lực để tìm cách giải quyết vấn nạn này.
Một
số người tổ chức vượt biển bị Hà Nội bắt giam và kết án tù nhiều năm.
Năm 1979, chính phủ Việt Nam cũng đồng ý cho mở ra chương trình ODP - ra
đi có trật tự - để những ai đủ điều kiện được thân nhân bảo lãnh đi
đoàn tụ ở nước ngoài được rời Việt Nam bằng máy bay, tránh phải vượt
biển nguy hiểm đến tính mạng.
Tuy
nhiên những giải pháp đó không bền vững và hiệu quả để làm giảm số
người vượt biển. Chương trình ODP bị Hà Nội ngưng tiến hành và người dân
vẫn ra đi bằng cách hối lộ công an để mua bãi, để công an biên phòng
làm ngơ.
Có những chuyến đi còn được chính công an địa phương tổ chức để thu đôla hay vàng.
Mãi
đến đầu thập niên 1990, khi thuyền nhân phải qua thanh lọc gắt gao và
những ai không hội đủ điều kiện để được hưởng qui chế tị nạn thì bị trả
về. Sau hai mươi năm kể từ ngày đất nước Việt Nam thống nhất 30/4/1975
thì làn sóng thuyền nhân mới chấm dứt. Trang sử thuyền nhân không có
trong bộ lịch sử cận đại Việt Nam theo quan điểm của Hà Nội.
Ngày
nay người Việt vẫn bỏ nước ra đi, được gọi bằng những danh từ mới như
"tị nạn giáo dục", "tị nạn môi trường". Họ ra đi bằng con đường kết hôn
với người nước ngoài, bằng đường du học hay xuất khẩu lao động.
Việt
Nam không chỉ xuất khẩu lao động sang những quốc gia tân tiến như Nhật,
Hàn Quốc, Singapore, Úc, Mỹ mà cả những nước nghèo như Togo, châu Phi
nơi tôi đã gặp mấy bạn trẻ qua đó buôn bán, mở nhà hàng và làm việc tại
phòng rửa hình.
Một
bạn sống ở Togo tám năm cho biết ở đây ăn uống không sợ có chất độc,
không khí trong lành. Người thân cứ nghĩ đời sống bên châu Phi khó khăn,
nhưng anh nói anh có một cuộc sống rất thoải mái.
Với nhiều người Việt, những yếu tố thúc đẩy họ phải rời quê hương vẫn còn mạnh lắm.
Bùi Văn Phú
*
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả hiện là
giảng viên đại học cộng đồng ở California. Ông đã có nhiều năm dạy học ở
Châu Phi và làm việc tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á.
(BBC)
Không có nhận xét nào