Nếu không có một phản ứng cứng rắn từ
phía cộng đồng quốc tế đối với các hành động của Trung Quốc tại Bãi Tư
Chính, các vụ việc tương tự sẽ còn lặp lại trong những năm tới, lý do
đơn giản là Bắc Kinh rất hào hứng nhận ra rằng các hành động cưỡng ép
của họ đã mang lại hiệu quả.
Bức ảnh đầu tiên về Haiyang Dizhi 8 và các tàu của nó trên thực địa (Nguồn: Thanhnien.vn) |
Nếu
không có một phản ứng cứng rắn từ phía cộng đồng quốc tế đối với các
hành động của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, các vụ việc tương tự sẽ còn
lặp lại trong những năm tới, lý do đơn giản là Bắc Kinh rất hào hứng
nhận ra rằng các hành động cưỡng ép của họ đã mang lại hiệu quả. Từ đó,
điều này sẽ trở thành một động lực không chỉ cho Trung Quốc mà còn là
các nước khác trong và ngoài khu vực đang nhen nhóm ý định bình thường
hoá các hành vi cưỡng ép trở thành bộ công cụ tiêu chuẩn trong cách hành
xử quốc gia khi mà lẽ phải sẽ thuộc về kẻ nắm quyền. Như lịch sử đã chỉ
ra, nhân nhượng sẽ chỉ gây ra nhiều hành động gây hấn hơn bởi những kẻ
hung hăng cường quyền biết rằng sẽ không có giới hạn nào cho các hành
động của họ. Và như vậy, Bãi Tư Chính sẽ không nên trở thành một
Sudetenland của Biển Đông.
Va
chạm đang diễn ra hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa có dấu
hiệu kết thúc. Việc Hà Nội công khai kêu gọi Bắc Kinh rút tàu, bao gồm
cả tàu HD08 (Haiyang Dizhi 08) ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của mình
cho thấy dường như Việt Nam đang duy trì lập trường khá cứng rắn về vấn
đề này. Thêm vào đó, Bộ Ngoại giao Mỹ gần đây đã phát ngôn phê phán việc
Trung Quốc có các hành vi cưỡng chế làm phương hại đến các hoạt động
khai thác năng lượng của các quốc gia trong khu vực.
Hành
vi của Trung Quốc dường như khá khó hiểu với nhiều người: Tại sao Trung
Quốc lại tiến hành một hoạt động bất hợp pháp kể trên tại Việt Nam cũng
như cản trợ các hoạt động năng lượng hợp pháp của Malaysia tại bãi
Luconia khu vực Sarawwak? Tuyên bố sau cuộc Cuộc gặp giữa các Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN tại Bangkok gần đây thể hiện sự kiềm chế liên quan tới
vấn đề Biển Đông khi không nhắc đến việc Bắc Kinh tiếp tục quân sự hoá
khu vực tranh chấp. Dường như nếu Trung Quốc thành công trong việc phổ
biến luận điệu của mình về việc tình hình Biển Đông đang hoàn toàn hoà
bình và ổn định, nước này sẽ không vấp phải bất kỳ can thiệp nào từ phía
bên ngoài. Liệu rằng va chạm tại bãi Tư Chính sẽ có khả năng đảo lộn ưu
thế này của Bắc Kinh hay không?
Bước
đầu tiên để có thể hiểu hành động của Bắc Kinh là quay trở về tìm hiểu
các vấn đề cốt lõi nhất nhất trong yêu sách mà nước này đưa ra. Bãi tư
Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhưng đồng thời
cũng nằm trong đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc. Rõ ràng, Phán quyết
của Toà Trọng tài Thường trực vào ngày 12 tháng 7 năm 2016 với nội dung
vô hiệu hoá yêu sách đường 9 đoạn đã không hề có bất kỳ tác dụng nào
tới các tính toán của Trung Quốc về các bước đi trên Biển Đông. Theo đó,
không giống với nhiều bình luận trước đây về vấn đề này, va chạm tại
Bãi Tư Chính đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc không hề bị Phán
quyết tác động. Bắc Kinh vừa không công nhận vừa không tuân thủ Phán
quyết của Toà Trọng tài Thường trực.
Đường chín đoạn vẫn đang có tác động rất lớn
Trung
Quốc vẫn duy trì lập luận rằng các hoạt động năng lượng mà các bên yêu
sách thực hiện trong phạm vi đường 9 đoạn - bao gồm bãi Tư Chính và Bãi
cạn Luconia- là bất hợp pháp bởi các khu vực này được coi là nằm trong
vùng nước tranh chấp, bất chấp nội dung của đường 9 đoạn đã bị vô hiệu
hoá từ ba năm trước. Tuy nhiên, theo các điều khoản của UNCLOS - bộ luật
hình thành nên các nguyên tắc cơ bản của trật tự luật pháp trên biển và
đồng thời là văn kiện Bắc Kinh vẫn liên tục tuyên bố là mình tuân thủ -
các quốc gia ven biển như Việt Nam đang thực thi quyền chủ quyền hợp
pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Rõ
ràng là Trung Quốc sẽ không có thêm bất kỳ một lập luận nào khác về PCA
bởi bất kỳ nhân nhượng nào của nước này cũng sẽ gây ảnh hưởng xấu tới
cái gọi là tính chính danh mà các tầng lớp lãnh đạo Trung Quốc, trong đó
có Chủ tịch Tập Cận Bình, đang đứng mũi chịu sào khi hứa sẽ thực thi
chủ quyền và quyền chủ quyền của mình trên Biển Đông. Việc đi ngược lại
với những hứa hẹn này sẽ gây ra các tổn thất về chính trị, không chỉ đối
với ông Tập mà còn cho cả Đảng Cộng sản Trung Quốc bởi từ lâu họ đã
nhận ra nhu cầu ngày càng lớn của việc thể hiện cho công chúng cùng lúc
với việc kích động chủ nghĩa dân tộc ở trong nước.
Nhưng
cách thức diễn giải của Bắc Kinh đằng sau các động thái gần đây của
nước này sẽ luôn kèm theo nhân tố về bài học cho các bên liên quan -
nhân tố mang tính động lực đối với các động thái của Bắc Kinh - thậm chí
đó là các động thái sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, nó sẽ vẫn được
diễn giải là phản ứng đối với sự kích động của các bên khác. Trong
trường hợp này, Trung Quốc sẽ giải thích hành động của mình ở Bãi Tư
Chính là nhằm đáp lại các hoạt động dầu khí của Việt Nam trong khu vực.
Thông điệp đằng sau hành động của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính không gì
ngoài sự mập mờ: Sẽ không ai theo đuổi các hoạt động khảo sát và khai
thác nguồn năng lượng tại các “vùng biển tranh chấp”, chưa nói đến việc
các hoạt động này không nhận được sự đồng thuận từ phía Trung Quốc, và
bất chấp việc liệu Bắc Kinh có tiến hành các hoạt động tương tự hay
không. Nói một cách đơn giản: Thậm chí Trung Quốc không chạm vào các
nguồn tài nguyên này, các nước khác cũng không thể làm điều đó. Điều này
đồng nghĩa với cái gọi là “đảm bảo sự từ chối lẫn nhau” đối với quyền
sử dụng các nguồn tài nguyên.
Các thay đổi trên thực địa
Tuy
nhiên, hành vi của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính không có gì mới mẻ. Cuộc
chạm chán lớn lần trước với Việt Nam liên quan tới giàn khoan dầu
HYSY981 vào năm 2014 được Bắc Kinh giải thích là phản ứng đối với các
hoạt động dầu khí đơn phương của Hà Nội tại khu vực được cho là vùng
nước tranh chấp, với sự tham gia của Ấn Độ thông qua công ty nhà nước
ONGC Videsh Limited. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều đã rút ra được các
bài học quý báu từ vụ va chạm kéo dài hàng tháng này, và kể từ đó đồng ý
việc “quan tâm tới bức tranh lớn hơn, giải quyết các vấn đề lãnh thổ
một cách phù hợp hơn” - nguyên tắc dường như ngụ ý rằng cả hai bên sẽ
tìm cách hoá giải các cảm xúc phát sinh từ chủ nghĩa dân tộc và giải
quyết cá xung đột một cách lặng lẽ hơn.
Đó
là một thay đổi kể từ năm 2014. Nhưng cũng có một thay đổi đáng kể khác
và đã được chứng minh tại va chạm tại Bãi Tư Chính. Đó là việc các hoạt
động quân sự hoá và cải tạo đảo của Trung Quốc đã đem lại kết quả. Các
tàu chiến của chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là tàu cảnh sát biển và dân
quân tự vệ, có thể duy trì sự hiện diện của mình tại bãi Tư Chính thông
qua trang thiết bị từ các tiền đồn trên các đảo nhân tạo mà không cần
phải quay lại các căn cứ trên thực địa để bổ sung và nghỉ ngơi.
Các tính toán của Bắc Kinh?
Bắc
Kinh có thể đã đánh giá một vài nhân tố có thể cho phép nước này mở
rộng việc sử dụng các hành vi cưỡng chế để đạt được mục tiêu trên Biển
Đông. Nhân tố đầu tiên sẽ là việc kích hoạt bộ phận thuộc các tiền đồn
trên Trường Sa để cung cấp cơ sở cho các hành vi cưỡng chế. Nhân tố thứ
hai là đánh giá của Trung Quốc về việc các nước Đông Nam Á đối địch sẽ
không cố gắng công khai hoá các hành vi cưỡng ép trên biển của Trung
Quốc do không muốn “đâm đầu vào đá”, đặc biệt khi ASEAN và Bắc Kinh gần
đây đã công nhận việc có những tiến triển tích cực đối với COC trên Biển
Đông, đó còn chưa kể đến việc hai bên đã đạt được một vài thành tựu
mang tính biểu tượng về mặt chính trị từ lễ khai mạc cuộc tập trận chung
trên biển ASEAN - Trung Quốc vào tháng 8 năm ngoái.
Cuối
cùng, nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra, Trung Quốc tin rằng họ có lối
thoát rất đơn giản khi tái sử dụng kịch bản việc giải thích tất cả các
hành động của mình đơn thuần là phản ứng lại với các hành vi kích động,
bao gồm việc buộc tội ngược rằng các bên yêu sách khác mới là các bên
làm phương hại đến thiện chí của Trung Quốc trong tiến trình tìm kiếm
hoà bình trên Biển Đông.
Bắc
Kinh có thể tự tin vào phán đoán của mình vào thời điểm các va chạm mới
nổ ra, khi mà các hành vi cưỡng chế đối với Malaysia ở dàn khoan Sapura
Esperanza tại Luconia chỉ được công khai qua mạng xã hội chứ không phải
các kênh truyền thông chính thống. Đồng thời các trang báo trong nước
cũng không hề đề cập tới các hành động này. Hà Nội rõ ràng cũng đã không
để các báo trong nước đưa tin về vụ Bãi Tư Chính cho tới tận cuối tuần
trước. Tất cả các động thái này có thể được coi là nỗ lực của các chính
phủ Đông Nam Á trong việc không thổi phồng tình hình và giải quyết tranh
chấp một cách lặng lẽ. Các vụ va chạm được đưa ra ánh sáng qua các
tường thuật đến từ Phương Tây, trong đó có các bài báo do Sáng Kiến Minh
bạch Hàng hải châu Á (AMTI) có trụ sở tại Washington DC đưa ra.
Nhưng
thực tế trên đã thay đổi với phát ngôn cứng rắn hơn từ phía Bộ Ngoại
giao Việt Nam cũng như việc Hà Nội dỡ bỏ các hạn chế đối với truyền
thông liên quan tới vụ việc này - dường như Việt Nam đã thể hiện sự tức
giận tăng cao đối với việc Trung Quốc ngoan cố ở lại Bãi tư Chính. Liệu
điều này có làm thay đổi các bước đi tiếp theo của Trung Quốc? Có thể
không. Bắc Kinh dường như sẽ không rút các tàu của mình ra khỏi Bãi Tư
Chính mà không tìm được một cách thức phù hợp để giữ thể diện. Nhưng ít
nhất điều này đã tạo thêm một khó khăn về mặt chính trị đối với Trung
Quốc - sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam sẽ tác động tới các
biện pháp của Hà Nội tại bãi Tư Chính. Nguy cơ xung đột sẽ ngày càng rõ
ràng với bắc Kinh, buộc nước này phải thận trọng hơn.
Điều
này cũng đồng nghĩa với việc các tàu Trung Quốc có thể sẽ vẫn tiếp tục
xuất hiện tại Bãi Tư Chính, nhưng sẽ có các chỉ đạo chính trị nhất định
để ngăn cản bất kỳ hành động nào có thể làm gia tăng căng thẳng. Cùng
lúc đó, có thể kịch bản tương tự năm 2014 sẽ lặp lại, các hoạt động
ngoại giao đằng sau hậu trường, đặc biệt là giữa đảng cầm quyền hai bên,
sẽ diễn ra.
Quốc tế hoá tranh chấp?
Một
điểm thú vị là Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề cập trong thông cáo báo chí
của mình về việc kêu gọi “các nước liên quan và cộng đồng quốc tế”
“cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung”. Nội dung
này có ý nghĩa ở chỗ nó ngụ ý về việc Hà Nội dường như đã sẵn lòng quốc
tế hoá va chạm tại Bãi Tư Chính, điều có thể tạo ra một sức mạnh lan toả
trong tranh chấp biển Đông. Động thái này sẽ có hiệu quả trong khi nó
đi ngược với việc Bắc Kinh đã từ lâu khước từ các can thiệp từ bên ngoài
đối với vấn đề Biển Đông. Bất kỳ hành động nào làm tệ hơn tình hình ở
Bãi Tư Chính có thể gây ảnh ưởng tới lợi ích và thu hút được sự can
thiệp chủ động của các bên ngoài khu vực dưới danh nghĩa việc bảo vệ
trật tự dựa trên luật lệ cũng như tự do hàng hải trong khu vực. Nói cách
khác, Bắc Kinh có thể hiểu phát ngôn từ phía Việt nam là một lời mời
công khai đối với sự tham gia của các bên ngoài khu vực.
Động
thái này có thể sẽ không khiến bắc Kinh phải đảo ngược lại tất cả các
hành động của mình ở Bãi Tư Chính ngay lập tức, nhưng ít nhất nó có thể
ngăn chặn Trung Quốc sử dụng các hành động hung hăng hơn và chỉ duy trì
hiện diện các tàu của mình trên các trạm trong vùng nước ở đây như hiện
nay. Nhưng rõ ràng điều này là không đủ. Khi Bắc Kinh còn nhận ra rằng
các hành vi cưỡng ép của mình trên Biển Đông sẽ không phải đi tới ngưỡng
chiến tranh và phải phải huy động toàn bộ lực lượng vũ trang để chống
lại, nước này sẽ vẫn còn có thể tự tin về việc sẽ không có thế lực bên
ngoài nào có thể buộc họ đưa tàu ra khỏi khu vực Tư Chính.
Buộc Trung Quốc phải lùi bước?
Như
vậy điều gì sẽ có khả năng buộc Bắc Kinh phải lùi bước và rút khỏi Bãi
Tư Chính? Ít nhất, ASEAN cần có một lập trường thống nhất và rõ ràng về
vấn đề này. Theo Nikkei, dự thảo tuyên bố của ASEAN sẽ đề cập rằng hành
động của Trung Quốc trên Biển Đông làm “xói mòn lòng tin”. Ngôn ngữ như
vậy là mạnh mẽ và rõ ràng nhắm thẳng tới Bắc Kinh. Nhưng điều mà ASEAN
cần tránh là sự chia rẽ nội bộ về ngôn ngữ và tông giọng của một phát
ngôn, sự chia rẽ này có thể khiến cho các tuyên bố của khối đưa ra đối
với các hành động của Trung Quốc bị giảm hiệu lực.
Để
đạt được tác động sâu sắc hơn, giới lãnh đạo chính trị ASEAN cần cảnh
báo Bắc Kinh rằng bất cứ loại hành vi cưỡng ép nào tại Bãi Tư Chính, đi
ngược lại với các thông lệ và quy tắc quốc tế sẽ làm phương hại tới
những gì mà ASEAN và Trung Quốc đã đạt được trong vòng hai năm qua,
trong đó có cả tiến trình COC. Bãi Tư Chính có thể là một phép thử cho
vai trò trung tâm và tính phù hợp trong thời gian tới của ASEAN trong
cấu trúc an ninh khu vực. Đã đến lúc tổ chức này phải có sự thể hiện phù
hợp sau khi đã thất bại trong việc làm những gì họ cần làm vào tháng 7
năm 2012.
Các
cường quốc bên ngoài khu vực quan trọng và các thể chế quốc tế như EU,
vốn đã thành công trong việc duy trì trật tự dựa trên luật lệ trong một
thời gian dài, cũng nên thể hiện tiếng nói của mình. Mỹ đã là cường quốc
đầu tiên phản ứng với các hành động gần đây của Trung Quốc. Dự thảo của
Thượng viện về Đạo luật Trừng phạt Trung Quốc liên quan tới các hành vi
trên Biển Đông và Biển Hoa Đông năm 2019, đề xuất vào cuối tháng 5 năm
nay có thể sẽ nhận được một cú huých nhất định sau va chạm này. Một khi
được thông qua, các biện pháp trừng phạt có thể nâng cái giá phải trả
đối với Trung Quốc và buộc nước này phải thay đổi hành động của mình.
Xây dựng một kịch bản cụ thể chống lại các hành vi cưỡng chế
Đã
đến lúc cộng đồng quốc tế, không chỉ là các quốc gia ASEAN, nhận ra
rằng việc cố gắng gắn Trung Quốc với các nỗ lực chung liên quan tới vấn
đề Biển Đông đã không mang lại hiệu quả sau những nỗ lực liên tiếp thời
gian qua. Một mặt, Trung Quốc công khai theo đuổi chính sách ngoại giao,
thể hiện qua việc nước này thúc đẩy CoC. Nhưng mặt khác, nước này tiếp
tục sử dụng các công cụ cưỡng chế để có thể đạt được mục tiêu của mình,
làm phương hại tới quyền hợp pháp của các bên khác. Các lợi thế về địa
lý của Trung Quốc là một quốc gia ven biển ở Biển Đông, và lực lượng của
họ xây dựng trên và xung quanh Biển Đông đã cho họ các khả năng vô tiền
khoáng hậu trong việc thực thi các hành vi cưỡng chế.
Nếu
không có một phản ứng cứng rắn từ phía cộng đồng quốc tế tới các hành
động của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, các vụ việc tương tự sẽ còn lặp
lại trong những năm tới đơn giản bởi Bắc Kinh rất hào hứng nhận ra rằng
các hành động cưỡng ép của họ đã mang lại hiệu quả. Từ đó, điều này sẽ
trở thành một động lực không chỉ cho Trung Quốc mà còn là các nước khác
trong và ngoài khu vực đang nhen nhóm ý định bình thường hoá các hành vi
cưỡng ép trở thành bộ công cụ tiêu chuẩn trong cách hành xử quốc gia
khi mà lẽ phải sẽ thuộc về kẻ nắm quyền.
Như
lịch sử đã chỉ ra, nhân nhượng sẽ chỉ gây ra nhiều hành động gây hấn
hơn bởi những kẻ hung hăng cường quyền biết rằng sẽ không có giới hạn
nào cho các hành động của họ. Và như vậy, Bãi Tư Chính không nên trở
thành một Sudetenland của Biển Đông.
Swee Lean Collin Koh
Lê Hà (dịch)
Trần Quang (hiệu đính)
* Swee Lean Collin Koh là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Chiến
lược và Quốc phòng, một đơn vị thuộc trường S. Rajaratnam về Nghiên cứu
Quốc tế, có trụ sở tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore. Bài viết
được đăng trên Maritime Issues.
(Nghiên cứu Quốc tế)
Không có nhận xét nào