Bộ Ngoại giao VN thông báo xác nhận
tàu Hải Dương 8 rút khỏi vùng biển Việt Nam và đồng thời yêu cầu các bên
liên quan tôn trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền, quyền tài phán của
Việt Nam và không tái diễn sự vi phạm. Như vậy, sau 3 tháng tiến hành
khảo sát ngang dọc vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, tàu Hải Dương 8
cùng nhóm tàu hộ tống đã rút về nước.
Hải Dương 8 đi và dàn khoan dầu sẽ tới? |
Thế
nhưng, theo Ian Storey, một thành viên cao cấp tại Viện ISEAS-Yusof
Ishak ở Singapore, nói với SCMP rằng việc rút tàu lần này chỉ có thể thể
tạm thời. Và bản thân Trung Quốc ngay sau đó đã tiếp tục củng cố “chủ
quyền” của mình qua vùng khảo sát, cũng như đề cập gián tiếp rằng, Hà
Nội nên đình chỉ hoạt động thăm dò và sản xuất dầu khí.
Điều
này đồng nghĩa, đó không “thể hiện một thất bại đáng xấu hổ của Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình” như cách mà Charlie Bradley nhận định đầy
chủ quan [1].
Zhang
Mingliang, một chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á tại Đại học Tế Nam,
phía nam thành phố Quảng Châu, nói rằng việc rút tàu của Trung Quốc
dường như không liên quan gì đến những phản đối ngoại giao của Việt Nam.
Mà theo ông, ông bày tỏ, rút về đơn giản vì “nó đã hoàn thành công việc
của mình”, và trong bối cảnh, Bắc Kinh đang nhằm giảm bớt căng thẳng
[của Trung Quốc] với Mỹ. Tầm quan trọng đối với mối quan hệ giữa Bắc
Kinh và Hà Nội là tối thiểu, ông nói, khi hai quốc gia đang tham gia vào
một trong những tranh chấp lãnh thổ phức tạp nhất thế giới. Sự ảnh
hưởng đến mối quan hệ Trung-Việt sẽ bị hạn chế vì đã có quá nhiều tranh
chấp như thế này, ông nói.
Thủ
tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc cũng có tuyên bố trong hội trường Quốc
Hội, theo đó, Hà Nội sẽ không bao giờ đưa ra bất kỳ nhượng bộ lãnh thổ
nào.
Nhưng
đội tàu Hải Dương 8 ra về trong bối cảnh mà các chính trị gia “không
khoan nhượng” trong đấu tranh chủ quyền quốc gia là cơ hội cho Hà Nội ở
nhiều khía cạnh. Đầu tiên là giảm nhiệt Biển Đông trong bối cảnh mà
ĐCSVN đang bàn về nhân sự cho kỳ Đại hội tới, và thứ hai là thời gian
vàng cho Hà Nội có thể “dự báo tình hình Biển Đông” theo như chỉ đạo của
ông Chủ tịch nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Nhưng
“tham vọng” của Tập Cận Bình không phải là điều dễ dàng dự báo, đặt
trong hoàn cảnh mà ý thức hệ chính trị của hai bên giống nhau, cũng như
Việt Nam đang thâm hụt thương mại với Bắc Kinh. Điều đó cho thấy, “xử lý
đúng đắn” các vấn đề liên quan đến chủ quyền Biển Đông hiện nay trong
nội tại ĐCSVN là một bài toán khó, và không dễ tìm ra một câu trả lời
đúng nhằm đảm bảo về kinh tế, chính trị, nhưng đồng thời thể hiện được
sự cương quyết trong gìn giữ chủ quyền quốc gia.
Một
Hội nghị lần thứ 9 về Hợp tác hành lang kinh tế của 4 tỉnh thành Việt
Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Quảng Ninh) với tỉnh Vân Nam (Trung
Quốc) là minh chứng rõ nét về mối quan hệ kinh tế ràng buộc giữa hai
quốc gia. Và cơ chế hợp tác hành lang năm 2004 cũng được xem xét và mở
rộng phạm vi, lĩnh vực trao đổi. Xác lập như là một cơ sở “khai thác
tiềm năng, lợi thế địa phương, xây dựng vùng biên hai quốc gia hòa bình,
hữu nghị và cùng phát triển”.
Carl
Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales Canberra, cho biết
thông điệp của ông Trọng đề cập đến “Biển Đông” gần đây có thể báo hiệu
rằng Hà Nội khó có thể lùi bước trước cuộc đối đầu với Bắc Kinh về chủ
quyền Biển Đông. Tuy nhiên, khi bối cảnh cả hai quốc gia cương quyết
không mất một cm đất do “tổ tiên để lại” thì bàn cờ quyết định phần
thắng lợi cho quốc gia nào đảm bảo khả năng quốc phòng và quốc tế vận
cao nhất. Và trong cuộc chơi này, dù Hà Nội tuyên bố cứng rắn “không bao
giờ thỏa hiệp”, nhưng cách thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong 3 tháng
vừa qua vừa cho thấy sự chênh lệch khả năng quân sự, vừa cho thấy sự
đơn độc của chính Việt Nam trong ván bài giữ gìn chủ quyền.
Trong
nước, sự “ngang ngược” của Trung Quốc tại chủ quyền quốc gia Việt Nam
cũng đặt ra một bài toán khó cho chính Hà Nội, liên quan đến phản ứng
của dư luận xã hội đối với chủ quyền.
ĐCSVN
– tổ chức duy trì quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện không muốn xuất
hiện bài học “biểu tình, bạo loạn” của năm 2014 khiến các nhà đầu tư
đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan sợ hãi. Nhưng Hà Nội
cũng hiểu rằng, sự nguội lạnh trong cung cách xử lý vấn đề Biển Đông
cũng gia tăng sự trấn áp người dân về quan điểm và những lần xuống đường
về Biển Đông có thể khiến cho người dân đánh mất sự tin tưởng về chính
sách và chủ trương của ĐCSVN. Và điều này, có vẻ còn nguy hiểm hơn cả sự
“rạn nứt trong nội bộ ĐCSVN.”
Thỏa
thuận với EU về hợp tác quốc phòng (FPA) có thể đem lại cho Hà Nội sự
tự tin trong tránh “cô đơn hóa” trong cuộc chiến Biển Đông. Và Hà Nội
cũng sẽ triển khai các tàu chiến hiện đại nhất tham gia lễ duyệt binh
quốc tế diễn ra tại Nha Trang, Khánh Hòa cùng đối tác khách mời trong
năm 2020.
Thế
nhưng, những cách thức liên kết đó không hỗ trợ cho Hà Nội về mặt quân
sự, mà hướng chủ yếu về mặt ngoại giao thể hiện. Ngoại giao này quá nhỏ
bé trước sức phức tạp của vấn đề Biển Đông, dù bản thân thúc đẩy Hà Nội
tiến tới kiện Bắc Kinh tại tòa án quốc tế về luật biển. Nhưng suy cho
cùng, khi mà Hà Nội vẫn đơn độc về mặt “liên minh”, thì yếu tố ngoại
giao cũng không khiến cho khả năng Trung Quốc sẽ cử một giàn khoan dầu
đến khu vực mà Hải Dương 8 đã thực hiện các cuộc điều tra địa chấn giảm
đi mức thấp nhất.
Và
viễn cảnh Việt Nam “ứng phó” đầy chật vật trong 3 tháng vừa qua sẽ tiếp
tục tái diễn trong thời gian tới, trong khi “dự báo” vẫn sẽ tiếp tục.
Và kiện hay liên minh quân sự vẫn bị bỏ ngỏ.
Trong
một diễn biến có liên quan, một quan chức từng phục vụ trong ngành
Tuyên giáo ĐCSVN, ông Vũ Ngọc Hoàng trong trả lời phỏng vấn RFI đã nhấn
mạnh: chỉ có dân chủ mới tập hợp được cả dân tộc này để bảo vệ Tổ quốc
và phát triển quốc gia.
Không có nhận xét nào