Nếu một bài thơ làm cho người đọc bị
buộc chặt vào một cái tên thì Du Tử Lê đã thực hiện được điều đó, điều
mà bất cứ người làm thơ nào cũng mong ước.
Có
lẽ người Việt hải ngoại đầu những năm 80 của thế kỷ trước khi nghe hay
đọc câu thơ “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” thì gần như ngay tức khắc
trong tận cùng thâm tâm sẽ bật khóc vì cảm thương thân phận chính mình,
những người mất quê hương và khi chết ao ước tột cùng được trở về quê
nhà, nơi mà từng tất đất vẫn đậm đà màu ruột thịt.
“Khi
tôi chết hãy đem tôi ra biển” không còn là bài thơ nữa, nó trở thành
một hình ảnh, một tiếng kêu tuyệt vọng, một lầm than trong đời sống
nhung gấm hay buốt xót tận cùng của sự ly hương mà tác giả chuyển tài
tới người cùng tiếng nói. Du Tử Lê phác thảo đám tang của ông mà hình
như của tất cả người Việt đang sống tha hương. Trong cái đám tang ấy
không có tiếng khóc, không có quan tài thậm chí không có người chết mà
chỉ có một mình ông vừa chạy hào hễn vừa thổn thức xin được ném thi thể
mình xuống biển để được trôi về quê nhà, nơi ông và chúng ta từ bỏ tất
cả chỉ để tìm một nỗi buồn xa xứ, nỗi buồn ấy chỉ có thể chấm dứt khi
chết đi, tức là khi biển cả chấp nhận cho chúng ta trở lại nơi xuất
phát: “Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết / đời lưu vong tận tuyệt với
linh hồn”.
Du
Tử Lê quen thuộc với người đọc qua bài thơ này và người ta cứ nhớ ông
khi nói về cái chết, về biển hay những cuộc vượt biên đầy nước mắt. Bẵng
đi một thời gian ông lại nổi tiếng hơn khi “Khúc Thụy Du” ra đời. Nhạc
sĩ Anh Bằng đã mang ông giới thiệu tới người nghe nhạc với ca khúc mà ai
cũng nhận ra tính phân ly của các đôi tình nhân trong cuộc chiến. Con
chím bói cá đơn độc là hình ảnh của Du Tử Lê, đứng trên những cọc nhọn
trăm năm chăm chăm nhìn xuống số phận chính mình. Con chim bói cá ấy kêu
tiếng bi ai giữa cuộc sinh tử của người mà nó yêu dấu bằng ngôn ngữ của
loài người: Thụy ơi và Thụy ơi….
Thụy
không phải chỉ riêng cho Du Tử Lê, Thụy là mầm sống chưa kịp nhú ra đã
bị dập tắt. Thụy là nạn nhân của binh đao của loạn lạc. Thụy là dấu chấm
hết cho một cuộc chiến nghiệt ngã đầy nước mắt và thi thể. Khúc Thụy Du
được ông sáng tác vào thời kỳ đen tối nhất của chiến tranh, năm 1968,
lúc xác chết của Thụy và hàng ngàn Thụy khác nằm lăn lóc khắp miền Nam.
Thụy sang Mỹ và nàng biến dạng thành một hình ảnh khác qua bàn tay của
Anh Bằng. Thụy mộng mị, êm ái và dịu dàng và Thụy trở thành nỗi niềm đôi
lứa của chú chim bói cá.
Du
Tử Lê là nhà thơ có số lượng thơ được phổ nhạc nhiều nhất trong các thi
sĩ nổi tiếng. Từ Phạm Duy, Phạm Đình Chương cho tới Từ Công Phụng, Trần
Duy Đức…Có lẽ thơ ông có sẵn giai điệu của âm nhạc, hai nữa ngôn ngữ
thi ca trong các bài thơ của ông thực sự chính phục người nghe qua các
từ ngữ tuy không diêm dúa nhưng khó nằm chung với những nhóm chữ mang
dáng vẻ cách tân chưa tới. Thơ ông đậm chất bất ngờ và đẩy ắp hình ảnh
của hiện thực lẫn ẩn dụ.
“Tôi xa người xa bàn tay, vui / Bàn tay có ngón đã chôn đời / Bàn tay có ngón không đeo nhẫn / Có ngón dành riêng cho môi tôi.”
“Ngón
tay dành cho môi tôi” chỉ có trong thơ Du Tử Lê, vừa bất ngờ lại lôi
cuốn đến kỳ lạ. Câu thơ dẫn đến những suy tưởng ngọt ngào biết chừng
nào.
Thơ
Du Tử Lê đầy ắp những vuốt ve, nồng nàn lẫn lạnh lẽo, cô đơn của chữ
nghĩa. Thơ ông không có giới hạn của ngôn ngữ, những câu chữ vượt ra
khỏi không gian mà nó hiện hữu để hòa vào nhịp suy tưởng của người đọc.
Du Tử Lê được tiếng là phù thủy ngôn ngữ cũng không ngoa, trong thơ ông
xuất hiện những câu chữ đẹp và làm say đắm:
“Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời / Như trời nhớ đất (rất xa xôi) / Nắng mưa nhớ mãi hàng hiên đợi / Thư nhớ hồi âm - Lệ nhớ môi”
“mịn
màng như nỗi chết / hoang đường như tuổi thơ / chưa một lần hé nở /
trên ngọn cờ không bay / đôi mắt nàng khôn khép / bàn tay nàng khôn thưa
/ lọn tóc nàng đêm tối / khư khư ôm tình dài”
“thay vì cloning cho tôi con cừu / hãy tạo sinh vô tính cho tôi buổi chiều, / quê cũ.”
Thơ
ông giúp người đọc thấm cái thi vị của ngôn ngữ cùng sự chắt lọc tinh
túy mà chỉ ngôn ngữ thi ca mới có được. Du Tử Lê làm mới ngôn ngữ bằng
những hình ảnh rất cụ thể. “Cloning”, hay nhân bản một buổi chiều quê cũ
cho ông là một thử thách, một đòi hỏi, một ẩn dụ đầy minh triết. Những
câu thơ tương tự như thế xuất hiện không ít trong hơn 50 thi tuyển của
ông là một công phu đồ sộ đáng chiêm ngưỡng.
Nhưng
thơ ông không chỉ thế, có nhiều câu mang nhiều ngữ nghĩa mà người đọc
toàn quyền sáng tác lại theo sự tưởng tượng đầy chủ quan của mình.
“Trả
lại” là một bài thơ đặc biệt của ông. Đặc biệt vì nó rất gần với quần
thể cải lương miền Nam chẳng những ở thi tứ, ngôn ngữ mà cả giai điệu,
âm tiết cũng đậm chất nam bộ.
“người
muốn trả lại người sân nắng cũ / vườn thanh xuân nhiều hạt mộng ươm mầm
/ tóc mênh mông chiều chưa gió một lần / mắt chưa rụng những cành me lá
biếc / môi cay đắng chưa đơm lời oan nghiệt / chân chưa run trên từng
bậc thang đời / mưa chưa bay trong vòm tối tình người / má chưa lạnh
những mùi son phấn nhạt”
Những
câu thơ này hoàn toàn có thể dùng cách ngâm sa mạc trong vọng cổ miền
Nam và khi diễn ngâm nó lên người dân nam bộ sẽ không thể tưởng tượng
được người sáng tác ra nó là một ông Bắc Kỳ chính gốc. Cái ông Bắc Kỳ ấy
còn có khả năng làm thơ để làm vui lòng những cô bé yêu thơ ông nhưng
khó tính và hay hờn dỗi. Ông là một nhà ảo thuật có thể làm nàng tròn
mắt và….yêu ông! Cũng trong bài thơ này ông viết:
“ta
ham hố nên gạt người vào cuộc / nhưng nhục nhằn ta khó thể làm thinh /
vung tay gươm ta phạt trúng cổ mình / mắt không kịp ngó theo đầu ta đã,
rụng”
Anh
yêu em nhưng vì ham hố nên đã vô tình… gạt gẫm em đến nỗi em bị cuộc
đời dày ải đến nhục nhằn, thôi thì anh tự sát đây, anh vung gươm lên
chém bay đầu mình và cầm cái đầu ấy đưa cho em tạ tội em nhé… Cô bé cười
khúc khích vì sự dịu dàng và hài hước của anh và lại ngã đầu vào bờ vai
lừa gạt không ngưng ấy…
Toàn
bộ bài thơ khi đọc, ngâm hay hát đều toát lên sông nước miền Nam, toát
lên chất nam bộ của một phần đất mà Du Tử Lê từng sống và yêu mến nó.
Ước gì cải lương miền Nam đầy những bài hát như “Trà lại” của Du Tử Lê
bởi nó chứng minh rằng ngôn ngữ trau chuốt của thi ca có thể làm cho một
bộ môn nghệ thuật sống vũng vàng trong lòng công chúng.
Thế nhưng Du Tử Lê đã lặng lẽ đi về hướng biển như ông từng ao ước cách đây hơn 40 năm.
Ngày
7 tháng 10 năm 2019, Du Tử Lê qua đời tại Mỹ. Ông chính thức nhận được
thông hành mất quyền lưu vong và ứng với câu “Khi tôi chết nỗi buồn kia
cũng hết / đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.”
Mặc Lâm
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào