Ngày 08/9/2019, một loạt “Tweeter” từ mạng “Tin tức về Biển
Đông” và các nguồn tin khác đều xác nhận, tàu Hải Dương Địa Chất 8
(HD-8) của Trung Quốc đã rời Đá Chữ Thập với tốc độ tối đa, cùng với một
số tàu hộ tống, đang trên đường quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính. Lần
này phải chăng Trung Quốc nhất quyết xâm chiếm khu vực quanh Bãi Tư
Chính? Chiếc tàu hải cảnh khổng lồ 3901 của Trung Quốc, chủ lực trong
đoàn hộ tống đã bật lại tín hiệu liên lạc,
cho thấy vị trí của nó gần chiếc HD-8. Căn cứ vào luật quốc tế, rõ ràng
Trung Quốc đang ngang nhiên xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và
thềm lục địa (CS) của Việt Nam… Đây là lần thứ ba từ đầu hè này, đội tàu
Trung Quốc quay lại khu vực này sau hai lần tạm lui về Đá Chữ Thập để
tiếp nhiên liệu.
Không thể bắt cả dân tộc này làm con tin! |
Chu Thị Xuyến: Đây
không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đưa tàu các loại vào Bãi Tư Chính
của Việt Nam. Các năm 2014, 2017 và 2018 đều có chuyện với Trung Quốc ở
khu vực này. Trước hết, Tiến sỹ đánh giá thế nào về ý đồ, mục tiêu của
các lần xâm nhập?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Ý đồ cũng như mục tiêu các lần xâm nhập của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của Việt Nam nằm trong tiến trình thực hiện chính sách “tằm ăn dâu” nhằm độc chiếm Biển Đông và thực hiện chiến lược biến Trung Quốc thành cường quốc đại dương. Chủ trương nhất quán ấy phục vụ cho mục đích của ban lãnh đạo Bắc Kinh là triển khai bằng được “Sáng kiến Vành đai con đường” (BRI) khét tiếng từ bao năm nay, mà Việt Nam là một đầu cầu quan trọng trong đó. Về các biện pháp thì thiên hình vạn trạng. Từ “ngoại giao pháo hạm”, đến “vừa ăn cướp vừa la làng”, từ dùng sức mạnh “cứng” đe dọa đến đẩy mạnh “tam chủng chiến pháp”… Đấy là chính sách nước lớn ức hiếp nước nhỏ, một chính sách bá quyền trong thời đại mới và cũng là một nét truyền thống trong chính sách bành trướng của Bắc Kinh đối với nhiều nước ở khu vực, trong đó có Việt Nam.
Những mục tiêu “nóng” hơn
Chu Thị Xuyến: Thế còn năm 2019 này?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Tuy nhiên, năm nay, cuộc xâm nhập diễn ra từ đầu mùa hè đến nay (có thể lấy cái mốc từ tháng 6/2019), với nhiều chiều kích mới, gắn với các mốc thời sự. Do đó, các vi phạm lần này có những mục tiêu “nóng” hơn so với các xâm nhập trước đây. Thứ nhất, Trung Quốc xâm nhập khu vực EEZ và CS của ta trong thời điểm Việt Nam đang chuẩn bị cả về đường lối lẫn nhân sự cho Đại hội Đảng sắp tới. Rõ ràng Bắc Kinh đang muốn gây sức ép lên ban lãnh đạo Hà Nội trên cả hai phương diện ấy. Thứ hai, Trung Quốc ức hiếp Việt Nam vào lúc Hà Nội sắp sửa đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Thông điệp Trung Quốc chuyển tới ASEAN, thông qua việc chủ động gây ra khủng hoảng trong khu vực Bãi Tư Chính là để ép Việt Nam và ASEAN chấp nhận các điều kiện do Trung Quốc áp đặt (mà Việt Nam và một số thành viên khác trong ASEAN đang bác bỏ) lên dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Thứ ba, kéo dài khủng hoảng Bãi Tư Chính, Trung Quốc bắn tin tới Mỹ và châu Âu rằng, Trung Quốc không ngán cái gọi là “Tự do đi lại trên biển” (FONOP) của Mỹ và phương Tây. Đặc biệt năm nay, Mỹ - Trung lại đang bước vào một cuộc thư hùng có thể nói là lớn nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế hậu chiến tranh Lạnh. Thứ tư, ngoài vấn đề thương chiến, năm nay Bắc Kinh đang đau đầu về Đài Loan, Hong Kong và nhiều vấn đề nội trị khác, nên lãnh đạo chủ trương gây hấn bên ngoài để “chùng bớt” căng thẳng nội bộ. Cuối cùng, nếu Việt Nam không quyết liệt, Trung Quốc rất có thể liều lĩnh chiếm đoạt một số điểm trong khu vực gần Bãi Tư Chính như Trung Quốc đã từng cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough hồi năm 2012.
Chu Thị Xuyến: Tiến sỹ có thể cho độc giả VHNA biết thêm về mức độ nghiêm trọng của các hành động xâm nhập lần này của Trung Quốc?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Ngày 04/9, một Hội nghị về An ninh diễn ra ở Singapore với sự tham gia của các nước Nhật, Úc, Ấn Độ… Các chuyên gia tại Hội nghị rất quan ngại về tình hình ở Biển Đông, với cảnh báo rằng, không còn ranh giới nào giữa hòa bình và chiến tranh trên biển nữa trước những hành vi liều lĩnh và hung hăng của Trung Quốc. Mức độ nghiêm trọng của các hành động xâm phạm còn thể hiện trên một số khía cạnh khác: Thứ nhất, hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mà bằng các lượt đưa tàu thăm dò và tàu cẩu lớn nhất vào ra xung quanh Bãi Tư Chính như ra vào một vùng biển vô chủ, Trung Quốc trên thực tế đã thách thức luật pháp quốc tế, đặc biệt là thách thức Bản Hiến chương về đại dương, tức là Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS-1982). Thứ hai, những hành động lặp đi lặp lại của Trung Quốc không chỉ đe dọa các hoạt động bình thường của các doanh nghiệp Việt Nam tác nghiệp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, mà còn cản phá việc thực hiện các hợp đồng giữa Việt Nam với các đối tác nước ngoài như Tây Ban Nha, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và cả Hoa Kỳ nữa. Thứ ba, là một trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ (P5), một bên đặt bút ký vào UNCLOS-1982, nhưng nay Trung Quốc nhảy vào khu vực Bãi Tư Chính một cách vô luân vô pháp như thế là trực tiếp thách thức trật tự pháp lý trên biển được xác lập trong Công ước, đồng thời vi phạm nghiêm trọng an ninh khu vực và thế giới, đặc biệt đe dọa an ninh năng lượng không chỉ của Việt Nam mà còn của các đối tác liên quan.
Chu Thị Xuyến: Tiến sỹ vừa nhắc đến cuộc thư hùng Trung - Mỹ. Ý ông nói tới cuộc thương chiến đang làm chấn động kinh tế toàn cầu! Nhưng thưa ông, liệu có mối liên hệ nào giữa các lần gây hấn hiện nay của Trung Quốc ở khu vực gần Tư Chính với khủng hoảng ở Hong Kong và cuộc thương chiến Mỹ - Trung?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Hẳn nhiên giữa các sự kiện ấy có liên quan khá mật thiết với nhau! Họa phúc đâu phải một buổi! Biểu tình Hong Kong như “lũ ống, lũ quét”, các giải pháp đối phó từ Bắc Kinh chưa thể đến trong ngày một ngày hai. Vì thế, Trung Quốc đang cần “xả stress”. Thương chiến Trung - Mỹ xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song tựu trung lại đây là cuộc “so găng” giữa hai gã khổng lồ, đại diện cho hai quan niệm ngược nhau về thế giới. Hai cường quốc này có những toan tính khác nhau về Trật tự quốc tế trong ngắn hạn và dài hạn; hiện họ đang quyết đấu xem ai sẽ là người “xác lập luật chơi”, ai sẽ là người “dẫn dắt” cái Trật tự ấy. Nhưng tại sao lúc này Trung Quốc lại chọn Việt Nam, chọn khu vực Bãi Tư Chính để “rút củi dưới đáy nồi” của cả hai điểm sôi vừa đề cập? Đơn giản, vì theo đánh giá của Trung Quốc, Việt Nam đang chập chững giữa “ngã ba đường”. Tuy là “đối tác mới nổi” trong cấu trúc của “không gian Ấn Thái Dương” (FOIP), nhưng lại ở vị trí dễ tổn thương, vì yếu cả về sức mạnh “cứng” lẫn sức mạnh “mềm”. Hẳn nhiên khi đánh giá như vậy để chọn “con mồi”, Bắc Kinh đã bỏ qua lịch sử xa xưa cũng như hiện đại mới đây.
“Nạn nhân kép”
Chu Thị Xuyến: Ý ông là với khủng hoảng kéo dài ở khu vực Bãi Tư Chính, Việt Nam có nguy cơ rơi vào thân phận “nạn nhân kép”, tức là vừa phải chịu sức ép về biển đảo do việc Trung Quốc cần “xả stress”, vừa có thể trở thành nạn nhân trong cuộc “so găng” Mỹ - Trung?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Các nhà nghiên cứu gần đây bắt đầu dùng khái niệm “nạn nhân kép” để mô tả tình thế khó khăn mà Việt Nam đang phải đương đầu xung quanh khủng hoảng ở khu vực Bãi Tư Chính. “Nạn nhân kép” ở đây thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, thân phận quốc gia Việt Nam bị tiếp tục chèn ép, thành quả lao động và hòa bình chúng ta có được bao lâu nay đang bị đe dọa; Thứ hai, ý đồ thâm hiểm của Trung Quốc là muốn khuất phục Việt Nam để răn đe các thành viên ASEAN khác trong khu vực, tạo đà để giành thế thượng phong với Mỹ trong các cuộc đối đầu quy mô toàn cầu. Nhìn sâu hơn vào cái nguy cơ của một thân phận là “nạn nhân kép”, chúng ta thấy dường như Trung Quốc đang muốn bắt cả dân tộc Việt Nam làm “con tin” cho chính sách bành trướng của họ.
Chu Thị Xuyến: Liệu khu vực và thế giới có nhìn nhận khủng hoảng Bãi Tư Chính ở mức độ nghiêm trọng như ông vừa phân tích?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Khi GS. Peter Navarro viết cuốn sách gối đầu giường cho các nhà hoạch định chiến lược từ mọi quốc gia “Chết dưới bàn tay Trung Quốc”, sau đó ông được Tổng thống Trump mời vào làm cố vấn trong Nhà Trắng, thì vị Giáo sư Kinh tế và Chính sách công này đã nhấn mạnh, Trung Quốc không chỉ là vấn đề của nước Mỹ, ban lãnh đạo Trung Quốc là vấn nạn toàn cầu. Khủng hoảng ở khu vực Bãi Tư Chính chỉ là một “nhát cắt” (cross-cutting), một âm mưu thường trực trong “kinh lược hải dương” của Bắc Kinh. Sau “Bãi Tư Chính” này sẽ còn nhiều “Bãi Tư Chính” khác. Kể từ 20/7/2019, qua các tuyên bố chính thức của Washington, từ Bộ Ngoại giao đến Bộ Quốc phòng, từ Ngoại trưởng đến tân Tổng trưởng Quốc phòng, từ Chủ tịch Quốc hội đến các Nghị sỹ đứng tên đề xuất Nghị quyết trừng phạt Trung Quốc… Rồi các tuyên bố từ Bộ Ngoại giao Nhật, Ấn Độ, Thủ tướng Úc, Liên minh châu Âu với tư cách là một khối thống nhất và từ ba nước đầu tàu EU là Pháp, Đức và Anh. Nếu không nhận thức được nguy cơ Trung Quốc và tầm mức nghiêm trọng của các vụ xâm lấn đang diễn ra hiện nay, Mỹ và phương Tây không hành động mau lẹ như thế.
Chu Thị Xuyến: Nội dung các tuyên bố của Mỹ và thế giới đề cập những vấn đề gì liên quan đến khủng hoảng Tư Chính?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Các tuyên bố phong phú và đa chiều kích, nhưng có 3 nội dung nổi bật. Một là lên án Trung Quốc ức hiếp Việt Nam. Hai là phê phán Trung Quốc làm tổn hại tới an ninh năng lượng khu vực và thế giới, gây tác động xấu, rất xấu đến Trật tự trong khu vực Ấn Thái Dương (FOIP). Ba là ủng hộ tuyên bố về quyền chủ quyền của ta (Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam). Cá biệt Quốc hội Mỹ còn đòi ra Nghị quyết riêng để trừng phạt Trung Quốc về những hành động gây hấn trên Biển Đông.
Chu Thị Xuyến: “Lụt thì lút cả làng” thưa Tiến sỹ. Nếu như lần này, thế giới tiếp tục ủng hộ Việt Nam, lên án Trung Quốc như chúng ta đang chứng kiến, vậy chúng ta có thể phát huy bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” như trong các cuộc kháng chiến trước đây?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Hoàn toàn có thể! Tuy nhiên, phải khẳng định ngay, nội hàm của bài học ấy ngày nay đã khác xưa một cách căn bản. Chính đường lối “hội nhập toàn diện và sâu rộng”, chủ trương kiến tạo một hệ thống “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện” của nhà nước ta đã phản ánh những thay đổi mang tính “chuyển dịch địa tầng” trong thời đại ngày nay. Trước đây, chúng ta chưa thể hình dung sẽ xuất hiện một cấu trúc an ninh mới có quy mô toàn cầu như “không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” (FOIP) của Bộ Tứ, bao gồm Úc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Chỉ cách đây hai năm, cũng chưa ai nghĩ ASEAN sẽ có phản ứng tích cực trước khung khổ địa-chính trị đó và khẳng định AOIP (Quan điểm của ASEAN về FOIP). Đây chính là cơ hội kim cương chứ không chỉ là cơ hội vàng để Việt Nam và ASEAN có thể trở thành những “thành viên theo sát” (shadow member) của “chiến lược Ấn Thái Dương” (IPS). Bài học dân tộc và thời đại ngày nay chính là ở chỗ đó!
Càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới
Chu Thị Xuyến: Philippines là một thành viên ASEAN khác từng bị Trung Quốc ức hiếp như Việt Nam. Ông Duterte phải giấu “sổ đỏ” được Tòa PCA cấp năm 2016. Việt Nam có học hỏi được điều gì qua chuyến thăm Bắc Kinh lần thứ 5 vừa qua của vị Tổng thống được coi là “Trump của Á châu”?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Bài học lớn nhất qua chuyến công du của ông Duterte tại Bắc Kinh là càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Philippines gác “sổ đỏ” bác đường lưỡi bò của Trung Quốc do Tòa Trọng tài thường trực (PCA) cấp năm 2016, còn Việt Nam thì nương vào “tình đồng chí 4 tốt và 16 chữ vàng” với hy vọng được yên ổn và giữ được “đại cục”… Nhưng tất cả đều vô nghĩa trước tham vọng biến Biển Đông thành ao nhà nhằm triển khai “Sáng kiến Vành đai con đường” (BRI) của Bắc Kinh.
Chu Thị Xuyến: Ông có thông tin gì mới về chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng? Trong bối cảnh hiện nay, chuyến thăm ấy có ý nghĩa như thế nào đối với bang giao Việt - Mỹ cũng như đối với quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Lời mời chính thức từ phía Mỹ đã được đích thân Tổng thống Trump đưa ra từ đầu năm, ngay tại Hà Nội. Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng cả hai nước đang chuẩn bị khá chộn rộn, chúng ta chứng kiến các trao đổi đoàn liên tục. Mới nhất là hai tướng Không quân Mỹ, Đại tướng Goldfein, Tham mưu trưởng và Đại tướng Brown, Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương chắc chắn không phải sang Việt Nam để nghỉ mát. Các ông ấy không giấu giếm mục đích “sang Hà Nội là để chuẩn bị các phương án bày lên bàn các nhà lãnh đạo chính trị để họ lựa chọn”. Nước ngoài bình luận rất nhiều. Phía ta thì vẫn “yên tĩnh”, nhưng rõ ràng đang chuẩn bị, âm thầm mà cương quyết! Tôi cho rằng, chuyến thăm cấp cao trong khoảng từ nay đến cuối năm sẽ là bước ngoặt không chỉ trong quan hệ Việt - Mỹ, mà còn là cột mốc lịch sử trên con đường hội nhập toàn diện và phát triển bền vững của Việt Nam.
Chu Thị Xuyến: Thưa Tiến sỹ, đấy là điều kiện bên ngoài, còn bên trong, cho đến nay, Tiến sỹ đánh giá thế nào về khả năng bảo vệ và giữ Tư Chính?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Tôi tin rằng, ta có khả năng và đủ sức mạnh để bảo vệ và giữ khu vực Bãi Tư Chính. Nhìn vào cách phản ứng của Bộ Ngoại giao Việt Nam (đã 3 lần ra tuyên bố chính thức và nhiều lần trao công hàm phản đối), phát biểu của người đứng đầu chính phủ (2 lần), dư luận có thể vẫn chưa thỏa mãn, nhưng trên thực tế ta đang chủ động một số kịch bản để kiên trì và kiên quyết xử lý cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, về quyết tâm thì chỉ có một và không hề lay chuyển, đó là phải giữ cho được khu vực Bãi Tư Chính bằng mọi giá! Ngày 08/9/2019, giới quan sát ghi nhận các dấu hiệu cho thấy tàu khảo sát Trung Quốc HD-8 đang trên đường quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính, với tốc độ tối đa. Phải chăng Trung Quốc đang rắp tâm chiếm khu vực Bãi Tư Chính bằng mọi giá? Tôi không dám nghĩ đến các hệ lụy nguy hiểm của việc mất Bãi Tư Chính hay Việt Nam lại buộc phải thoái lui khỏi một “lô dầu” nào đấy từ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Bởi vì khu vực Bãi Tư Chính là một “cứ điểm” chiến lược trọng yếu. Mất Bãi Tư Chính hay mất bất cứ một điểm nào, một phần nào nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của ta sẽ dẫn đến mất toàn bộ Biển Đông. Phát huy ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để bảo vệ biển đảo hiện nay, tôi băn khoăn, dường như ta chưa thấm nhuần sâu sắc về sức mạnh của lòng dân, chưa dựa vào khát vọng và cố kết bên trong. Nếu chính quyền chưa coi trọng đúng mức, không dựa vào yếu tố “nhân hòa” thì cái giá đỡ “thời đại” sẽ không phát huy được hết tác dụng. Chúng ta chủ trương “quốc tế hóa Biển Đông”, kêu gọi các nước đóng góp vào việc bảo vệ hòa bình - an ninh trên Biển Đông, chúng ta càng phải chú ý đến các nhân tố nội tại.
“Mô thức Bí Đao” như một giải pháp
Chu Thị Xuyến: Hơn hai tháng qua, hàng trăm bài viết nhắc đi nhắc lại các biện pháp cần kíp vào thời điểm “nước sôi lửa bỏng” này. Tiến sỹ có nhận xét gì về các giải pháp được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề xuất?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Phần lớn các giải pháp đề xuất đều hợp lý và khả thi, đặc biệt là phải kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Tôi xin nhắc lại đề xuất trước đây, “Mô thức Bí Đao” (P&DOWN) như một giải pháp tổng thể. Các thành tố của giải pháp, khi triển khai trong thực tiễn, luôn phải cập nhật hóa cho phù hợp với tình hình. “P” trong Partnership như hệ thống đối tác chiến lược hoặc toàn diện, đã đến lúc cần nâng cấp “đối tác toàn diện” trong quan hệ Việt - Mỹ. Tuy nhiên, “P” chỉ phát huy hiệu quả tối đa nếu chúng ta mạnh bên trong và mở ra được những thế cờ mới cả trong lẫn ngoài. Về thành tố “D” như dân chủ hóa đất nước,chính quyền cần phát huy đầy đủ hơn “sức mạnh mềm” ẩn chứa trong triệu triệu lồng ngực. Không nên hạn chế vai trò của người dân và xã hội dân sự trong sự nghiệp bảo vệ biển đảo. Chúng ta vẫn phải tiếp tục đàm phán, lấy “nhu” thắng “cương”, “nhu” nhưng không “nhược”! Đó còn là thành tố “O” trong (Organising)đàm phán COC và tổ chức cuộc chiến pháp lý và truyền thông trong nước và ra với thế giới. Kết hợp hài hòa các nhân tố then chốt ấy để kiến tạo nên một “minh triết bảo quốc”(Wisdom), để kết nối(Networking) với không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở (FOIP) theo AOIP - nhận thức của Việt Nam và ASEAN về FOIP.
Chu Thị Xuyến: Xin cảm ơn Tiến sỹ về cuộc trao đổi này và hy vọng chúng ta còn tiếp tục câu chuyện về “Minh triết làm chủ Biển Đông” vào một dịp khác./.
TS. Đinh Hoàng Thắng: Ý đồ cũng như mục tiêu các lần xâm nhập của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của Việt Nam nằm trong tiến trình thực hiện chính sách “tằm ăn dâu” nhằm độc chiếm Biển Đông và thực hiện chiến lược biến Trung Quốc thành cường quốc đại dương. Chủ trương nhất quán ấy phục vụ cho mục đích của ban lãnh đạo Bắc Kinh là triển khai bằng được “Sáng kiến Vành đai con đường” (BRI) khét tiếng từ bao năm nay, mà Việt Nam là một đầu cầu quan trọng trong đó. Về các biện pháp thì thiên hình vạn trạng. Từ “ngoại giao pháo hạm”, đến “vừa ăn cướp vừa la làng”, từ dùng sức mạnh “cứng” đe dọa đến đẩy mạnh “tam chủng chiến pháp”… Đấy là chính sách nước lớn ức hiếp nước nhỏ, một chính sách bá quyền trong thời đại mới và cũng là một nét truyền thống trong chính sách bành trướng của Bắc Kinh đối với nhiều nước ở khu vực, trong đó có Việt Nam.
Những mục tiêu “nóng” hơn
Chu Thị Xuyến: Thế còn năm 2019 này?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Tuy nhiên, năm nay, cuộc xâm nhập diễn ra từ đầu mùa hè đến nay (có thể lấy cái mốc từ tháng 6/2019), với nhiều chiều kích mới, gắn với các mốc thời sự. Do đó, các vi phạm lần này có những mục tiêu “nóng” hơn so với các xâm nhập trước đây. Thứ nhất, Trung Quốc xâm nhập khu vực EEZ và CS của ta trong thời điểm Việt Nam đang chuẩn bị cả về đường lối lẫn nhân sự cho Đại hội Đảng sắp tới. Rõ ràng Bắc Kinh đang muốn gây sức ép lên ban lãnh đạo Hà Nội trên cả hai phương diện ấy. Thứ hai, Trung Quốc ức hiếp Việt Nam vào lúc Hà Nội sắp sửa đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Thông điệp Trung Quốc chuyển tới ASEAN, thông qua việc chủ động gây ra khủng hoảng trong khu vực Bãi Tư Chính là để ép Việt Nam và ASEAN chấp nhận các điều kiện do Trung Quốc áp đặt (mà Việt Nam và một số thành viên khác trong ASEAN đang bác bỏ) lên dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Thứ ba, kéo dài khủng hoảng Bãi Tư Chính, Trung Quốc bắn tin tới Mỹ và châu Âu rằng, Trung Quốc không ngán cái gọi là “Tự do đi lại trên biển” (FONOP) của Mỹ và phương Tây. Đặc biệt năm nay, Mỹ - Trung lại đang bước vào một cuộc thư hùng có thể nói là lớn nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế hậu chiến tranh Lạnh. Thứ tư, ngoài vấn đề thương chiến, năm nay Bắc Kinh đang đau đầu về Đài Loan, Hong Kong và nhiều vấn đề nội trị khác, nên lãnh đạo chủ trương gây hấn bên ngoài để “chùng bớt” căng thẳng nội bộ. Cuối cùng, nếu Việt Nam không quyết liệt, Trung Quốc rất có thể liều lĩnh chiếm đoạt một số điểm trong khu vực gần Bãi Tư Chính như Trung Quốc đã từng cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough hồi năm 2012.
Chu Thị Xuyến: Tiến sỹ có thể cho độc giả VHNA biết thêm về mức độ nghiêm trọng của các hành động xâm nhập lần này của Trung Quốc?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Ngày 04/9, một Hội nghị về An ninh diễn ra ở Singapore với sự tham gia của các nước Nhật, Úc, Ấn Độ… Các chuyên gia tại Hội nghị rất quan ngại về tình hình ở Biển Đông, với cảnh báo rằng, không còn ranh giới nào giữa hòa bình và chiến tranh trên biển nữa trước những hành vi liều lĩnh và hung hăng của Trung Quốc. Mức độ nghiêm trọng của các hành động xâm phạm còn thể hiện trên một số khía cạnh khác: Thứ nhất, hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mà bằng các lượt đưa tàu thăm dò và tàu cẩu lớn nhất vào ra xung quanh Bãi Tư Chính như ra vào một vùng biển vô chủ, Trung Quốc trên thực tế đã thách thức luật pháp quốc tế, đặc biệt là thách thức Bản Hiến chương về đại dương, tức là Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS-1982). Thứ hai, những hành động lặp đi lặp lại của Trung Quốc không chỉ đe dọa các hoạt động bình thường của các doanh nghiệp Việt Nam tác nghiệp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, mà còn cản phá việc thực hiện các hợp đồng giữa Việt Nam với các đối tác nước ngoài như Tây Ban Nha, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và cả Hoa Kỳ nữa. Thứ ba, là một trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ (P5), một bên đặt bút ký vào UNCLOS-1982, nhưng nay Trung Quốc nhảy vào khu vực Bãi Tư Chính một cách vô luân vô pháp như thế là trực tiếp thách thức trật tự pháp lý trên biển được xác lập trong Công ước, đồng thời vi phạm nghiêm trọng an ninh khu vực và thế giới, đặc biệt đe dọa an ninh năng lượng không chỉ của Việt Nam mà còn của các đối tác liên quan.
Chu Thị Xuyến: Tiến sỹ vừa nhắc đến cuộc thư hùng Trung - Mỹ. Ý ông nói tới cuộc thương chiến đang làm chấn động kinh tế toàn cầu! Nhưng thưa ông, liệu có mối liên hệ nào giữa các lần gây hấn hiện nay của Trung Quốc ở khu vực gần Tư Chính với khủng hoảng ở Hong Kong và cuộc thương chiến Mỹ - Trung?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Hẳn nhiên giữa các sự kiện ấy có liên quan khá mật thiết với nhau! Họa phúc đâu phải một buổi! Biểu tình Hong Kong như “lũ ống, lũ quét”, các giải pháp đối phó từ Bắc Kinh chưa thể đến trong ngày một ngày hai. Vì thế, Trung Quốc đang cần “xả stress”. Thương chiến Trung - Mỹ xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song tựu trung lại đây là cuộc “so găng” giữa hai gã khổng lồ, đại diện cho hai quan niệm ngược nhau về thế giới. Hai cường quốc này có những toan tính khác nhau về Trật tự quốc tế trong ngắn hạn và dài hạn; hiện họ đang quyết đấu xem ai sẽ là người “xác lập luật chơi”, ai sẽ là người “dẫn dắt” cái Trật tự ấy. Nhưng tại sao lúc này Trung Quốc lại chọn Việt Nam, chọn khu vực Bãi Tư Chính để “rút củi dưới đáy nồi” của cả hai điểm sôi vừa đề cập? Đơn giản, vì theo đánh giá của Trung Quốc, Việt Nam đang chập chững giữa “ngã ba đường”. Tuy là “đối tác mới nổi” trong cấu trúc của “không gian Ấn Thái Dương” (FOIP), nhưng lại ở vị trí dễ tổn thương, vì yếu cả về sức mạnh “cứng” lẫn sức mạnh “mềm”. Hẳn nhiên khi đánh giá như vậy để chọn “con mồi”, Bắc Kinh đã bỏ qua lịch sử xa xưa cũng như hiện đại mới đây.
“Nạn nhân kép”
Chu Thị Xuyến: Ý ông là với khủng hoảng kéo dài ở khu vực Bãi Tư Chính, Việt Nam có nguy cơ rơi vào thân phận “nạn nhân kép”, tức là vừa phải chịu sức ép về biển đảo do việc Trung Quốc cần “xả stress”, vừa có thể trở thành nạn nhân trong cuộc “so găng” Mỹ - Trung?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Các nhà nghiên cứu gần đây bắt đầu dùng khái niệm “nạn nhân kép” để mô tả tình thế khó khăn mà Việt Nam đang phải đương đầu xung quanh khủng hoảng ở khu vực Bãi Tư Chính. “Nạn nhân kép” ở đây thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, thân phận quốc gia Việt Nam bị tiếp tục chèn ép, thành quả lao động và hòa bình chúng ta có được bao lâu nay đang bị đe dọa; Thứ hai, ý đồ thâm hiểm của Trung Quốc là muốn khuất phục Việt Nam để răn đe các thành viên ASEAN khác trong khu vực, tạo đà để giành thế thượng phong với Mỹ trong các cuộc đối đầu quy mô toàn cầu. Nhìn sâu hơn vào cái nguy cơ của một thân phận là “nạn nhân kép”, chúng ta thấy dường như Trung Quốc đang muốn bắt cả dân tộc Việt Nam làm “con tin” cho chính sách bành trướng của họ.
Chu Thị Xuyến: Liệu khu vực và thế giới có nhìn nhận khủng hoảng Bãi Tư Chính ở mức độ nghiêm trọng như ông vừa phân tích?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Khi GS. Peter Navarro viết cuốn sách gối đầu giường cho các nhà hoạch định chiến lược từ mọi quốc gia “Chết dưới bàn tay Trung Quốc”, sau đó ông được Tổng thống Trump mời vào làm cố vấn trong Nhà Trắng, thì vị Giáo sư Kinh tế và Chính sách công này đã nhấn mạnh, Trung Quốc không chỉ là vấn đề của nước Mỹ, ban lãnh đạo Trung Quốc là vấn nạn toàn cầu. Khủng hoảng ở khu vực Bãi Tư Chính chỉ là một “nhát cắt” (cross-cutting), một âm mưu thường trực trong “kinh lược hải dương” của Bắc Kinh. Sau “Bãi Tư Chính” này sẽ còn nhiều “Bãi Tư Chính” khác. Kể từ 20/7/2019, qua các tuyên bố chính thức của Washington, từ Bộ Ngoại giao đến Bộ Quốc phòng, từ Ngoại trưởng đến tân Tổng trưởng Quốc phòng, từ Chủ tịch Quốc hội đến các Nghị sỹ đứng tên đề xuất Nghị quyết trừng phạt Trung Quốc… Rồi các tuyên bố từ Bộ Ngoại giao Nhật, Ấn Độ, Thủ tướng Úc, Liên minh châu Âu với tư cách là một khối thống nhất và từ ba nước đầu tàu EU là Pháp, Đức và Anh. Nếu không nhận thức được nguy cơ Trung Quốc và tầm mức nghiêm trọng của các vụ xâm lấn đang diễn ra hiện nay, Mỹ và phương Tây không hành động mau lẹ như thế.
Chu Thị Xuyến: Nội dung các tuyên bố của Mỹ và thế giới đề cập những vấn đề gì liên quan đến khủng hoảng Tư Chính?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Các tuyên bố phong phú và đa chiều kích, nhưng có 3 nội dung nổi bật. Một là lên án Trung Quốc ức hiếp Việt Nam. Hai là phê phán Trung Quốc làm tổn hại tới an ninh năng lượng khu vực và thế giới, gây tác động xấu, rất xấu đến Trật tự trong khu vực Ấn Thái Dương (FOIP). Ba là ủng hộ tuyên bố về quyền chủ quyền của ta (Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam). Cá biệt Quốc hội Mỹ còn đòi ra Nghị quyết riêng để trừng phạt Trung Quốc về những hành động gây hấn trên Biển Đông.
Chu Thị Xuyến: “Lụt thì lút cả làng” thưa Tiến sỹ. Nếu như lần này, thế giới tiếp tục ủng hộ Việt Nam, lên án Trung Quốc như chúng ta đang chứng kiến, vậy chúng ta có thể phát huy bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” như trong các cuộc kháng chiến trước đây?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Hoàn toàn có thể! Tuy nhiên, phải khẳng định ngay, nội hàm của bài học ấy ngày nay đã khác xưa một cách căn bản. Chính đường lối “hội nhập toàn diện và sâu rộng”, chủ trương kiến tạo một hệ thống “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện” của nhà nước ta đã phản ánh những thay đổi mang tính “chuyển dịch địa tầng” trong thời đại ngày nay. Trước đây, chúng ta chưa thể hình dung sẽ xuất hiện một cấu trúc an ninh mới có quy mô toàn cầu như “không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” (FOIP) của Bộ Tứ, bao gồm Úc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Chỉ cách đây hai năm, cũng chưa ai nghĩ ASEAN sẽ có phản ứng tích cực trước khung khổ địa-chính trị đó và khẳng định AOIP (Quan điểm của ASEAN về FOIP). Đây chính là cơ hội kim cương chứ không chỉ là cơ hội vàng để Việt Nam và ASEAN có thể trở thành những “thành viên theo sát” (shadow member) của “chiến lược Ấn Thái Dương” (IPS). Bài học dân tộc và thời đại ngày nay chính là ở chỗ đó!
Càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới
Chu Thị Xuyến: Philippines là một thành viên ASEAN khác từng bị Trung Quốc ức hiếp như Việt Nam. Ông Duterte phải giấu “sổ đỏ” được Tòa PCA cấp năm 2016. Việt Nam có học hỏi được điều gì qua chuyến thăm Bắc Kinh lần thứ 5 vừa qua của vị Tổng thống được coi là “Trump của Á châu”?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Bài học lớn nhất qua chuyến công du của ông Duterte tại Bắc Kinh là càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Philippines gác “sổ đỏ” bác đường lưỡi bò của Trung Quốc do Tòa Trọng tài thường trực (PCA) cấp năm 2016, còn Việt Nam thì nương vào “tình đồng chí 4 tốt và 16 chữ vàng” với hy vọng được yên ổn và giữ được “đại cục”… Nhưng tất cả đều vô nghĩa trước tham vọng biến Biển Đông thành ao nhà nhằm triển khai “Sáng kiến Vành đai con đường” (BRI) của Bắc Kinh.
Chu Thị Xuyến: Ông có thông tin gì mới về chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng? Trong bối cảnh hiện nay, chuyến thăm ấy có ý nghĩa như thế nào đối với bang giao Việt - Mỹ cũng như đối với quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Lời mời chính thức từ phía Mỹ đã được đích thân Tổng thống Trump đưa ra từ đầu năm, ngay tại Hà Nội. Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng cả hai nước đang chuẩn bị khá chộn rộn, chúng ta chứng kiến các trao đổi đoàn liên tục. Mới nhất là hai tướng Không quân Mỹ, Đại tướng Goldfein, Tham mưu trưởng và Đại tướng Brown, Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương chắc chắn không phải sang Việt Nam để nghỉ mát. Các ông ấy không giấu giếm mục đích “sang Hà Nội là để chuẩn bị các phương án bày lên bàn các nhà lãnh đạo chính trị để họ lựa chọn”. Nước ngoài bình luận rất nhiều. Phía ta thì vẫn “yên tĩnh”, nhưng rõ ràng đang chuẩn bị, âm thầm mà cương quyết! Tôi cho rằng, chuyến thăm cấp cao trong khoảng từ nay đến cuối năm sẽ là bước ngoặt không chỉ trong quan hệ Việt - Mỹ, mà còn là cột mốc lịch sử trên con đường hội nhập toàn diện và phát triển bền vững của Việt Nam.
Chu Thị Xuyến: Thưa Tiến sỹ, đấy là điều kiện bên ngoài, còn bên trong, cho đến nay, Tiến sỹ đánh giá thế nào về khả năng bảo vệ và giữ Tư Chính?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Tôi tin rằng, ta có khả năng và đủ sức mạnh để bảo vệ và giữ khu vực Bãi Tư Chính. Nhìn vào cách phản ứng của Bộ Ngoại giao Việt Nam (đã 3 lần ra tuyên bố chính thức và nhiều lần trao công hàm phản đối), phát biểu của người đứng đầu chính phủ (2 lần), dư luận có thể vẫn chưa thỏa mãn, nhưng trên thực tế ta đang chủ động một số kịch bản để kiên trì và kiên quyết xử lý cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, về quyết tâm thì chỉ có một và không hề lay chuyển, đó là phải giữ cho được khu vực Bãi Tư Chính bằng mọi giá! Ngày 08/9/2019, giới quan sát ghi nhận các dấu hiệu cho thấy tàu khảo sát Trung Quốc HD-8 đang trên đường quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính, với tốc độ tối đa. Phải chăng Trung Quốc đang rắp tâm chiếm khu vực Bãi Tư Chính bằng mọi giá? Tôi không dám nghĩ đến các hệ lụy nguy hiểm của việc mất Bãi Tư Chính hay Việt Nam lại buộc phải thoái lui khỏi một “lô dầu” nào đấy từ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Bởi vì khu vực Bãi Tư Chính là một “cứ điểm” chiến lược trọng yếu. Mất Bãi Tư Chính hay mất bất cứ một điểm nào, một phần nào nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của ta sẽ dẫn đến mất toàn bộ Biển Đông. Phát huy ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để bảo vệ biển đảo hiện nay, tôi băn khoăn, dường như ta chưa thấm nhuần sâu sắc về sức mạnh của lòng dân, chưa dựa vào khát vọng và cố kết bên trong. Nếu chính quyền chưa coi trọng đúng mức, không dựa vào yếu tố “nhân hòa” thì cái giá đỡ “thời đại” sẽ không phát huy được hết tác dụng. Chúng ta chủ trương “quốc tế hóa Biển Đông”, kêu gọi các nước đóng góp vào việc bảo vệ hòa bình - an ninh trên Biển Đông, chúng ta càng phải chú ý đến các nhân tố nội tại.
“Mô thức Bí Đao” như một giải pháp
Chu Thị Xuyến: Hơn hai tháng qua, hàng trăm bài viết nhắc đi nhắc lại các biện pháp cần kíp vào thời điểm “nước sôi lửa bỏng” này. Tiến sỹ có nhận xét gì về các giải pháp được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề xuất?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Phần lớn các giải pháp đề xuất đều hợp lý và khả thi, đặc biệt là phải kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Tôi xin nhắc lại đề xuất trước đây, “Mô thức Bí Đao” (P&DOWN) như một giải pháp tổng thể. Các thành tố của giải pháp, khi triển khai trong thực tiễn, luôn phải cập nhật hóa cho phù hợp với tình hình. “P” trong Partnership như hệ thống đối tác chiến lược hoặc toàn diện, đã đến lúc cần nâng cấp “đối tác toàn diện” trong quan hệ Việt - Mỹ. Tuy nhiên, “P” chỉ phát huy hiệu quả tối đa nếu chúng ta mạnh bên trong và mở ra được những thế cờ mới cả trong lẫn ngoài. Về thành tố “D” như dân chủ hóa đất nước,chính quyền cần phát huy đầy đủ hơn “sức mạnh mềm” ẩn chứa trong triệu triệu lồng ngực. Không nên hạn chế vai trò của người dân và xã hội dân sự trong sự nghiệp bảo vệ biển đảo. Chúng ta vẫn phải tiếp tục đàm phán, lấy “nhu” thắng “cương”, “nhu” nhưng không “nhược”! Đó còn là thành tố “O” trong (Organising)đàm phán COC và tổ chức cuộc chiến pháp lý và truyền thông trong nước và ra với thế giới. Kết hợp hài hòa các nhân tố then chốt ấy để kiến tạo nên một “minh triết bảo quốc”(Wisdom), để kết nối(Networking) với không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở (FOIP) theo AOIP - nhận thức của Việt Nam và ASEAN về FOIP.
Chu Thị Xuyến: Xin cảm ơn Tiến sỹ về cuộc trao đổi này và hy vọng chúng ta còn tiếp tục câu chuyện về “Minh triết làm chủ Biển Đông” vào một dịp khác./.
(Văn hóa Nghệ An)
Không có nhận xét nào