Khi Lê Duẩn đọc những từ đầu tiên của bài điếu văn, người dân Hà Nội và Bắc Việt Nam đối diện một hiện thực ảm đạm.
Nhìn lại lịch sử: Hồ Chí Minh bị gạt khỏi quyền lực những năm cuối đời |
Đó
là một ngày đẹp trời đầu tháng 9 năm 1969. Hàng ngàn người đã tụ tập về
Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội trong một sự kiện mà quy mô của nó gợi
nhớ lúc Việt Nam tuyên bố độc lập khỏi Pháp vào năm 1945. Họ đến để vĩnh
biệt người đọc bản tuyên ngôn đó, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa Hồ Chí Minh.
Ông
Hồ qua đời vào sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 sau một cơn đau tim, theo
những tường thuật chính thống. Lãnh tụ cách mạng Việt Nam nổi bật nhất
trên trường quốc tế hưởng thọ 79 tuổi.
"Hồ
Chủ Tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa!" Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất
của Đảng Lao động Việt Nam, mở đầu bài điếu văn. "Tổn thất này vô cùng
lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn! Dân tộc ta và Đảng ta mất một vị
lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại."
Trên khán đài khách viếng quốc tế đứng trầm ngâm, dưới quảng trường nhiều người không nén được cảm xúc và bật khóc.
Đến
cuối đời ông Hồ vẫn duy trì hình ảnh của mình như là một lãnh tụ sáng
suốt và bình dân trong lòng nhiều người. Nhưng sự ngưỡng vọng dành cho
ông khỏa lấp một thực tế là ông chỉ còn là một nhà lãnh đạo mang tính
biểu tượng và đã bị gạt ra khỏi quyền lực, theo nghiên cứu của các nhà
sử học quốc tế.
‘Đứng ra ngoài’
Với
vai trò bí thư thứ nhất, Lê Duẩn là nhân vật cao cấp thứ nhì trong Đảng
Lao động Việt Nam chỉ sau ông Hồ, người giữ chức Chủ tịch Đảng. Nhưng
quyền lực thực sự nằm trong tay ông Duẩn, nhà cách mạng dày dạn xuất
thân từ Quảng Trị.
Giới
học giả ghi nhận bất đồng công khai giữa hai nhà lãnh đạo từ đầu những
năm 1960. Dù cả hai đều là những người cộng sản kiên định, Lê Duẩn cổ
xúy chính sách leo thang chiến tranh ở miền Nam Việt Nam để giành chiến
thắng trong khi Hồ Chí Minh có lập trường ôn hòa hơn và chủ trương kết
hợp các biện pháp chính trị lẫn quân sự.
Ông
Duẩn, người vươn lên nắm giữ vị trí quan trọng hàng đầu từ cuối những
năm 1950, sớm nhận ra sự khác biệt quan điểm giữa hai người sẽ là chướng
ngại trên con đường ông hiện thực hóa viễn kiến của mình ở miền Nam.
"Họ
cho [Hồ Chí Minh] là mối đe dọa lớn từ năm 1963 rồi," Tiến sĩ Ngô Vĩnh
Long, Giáo sư Lịch sử Đại học Maine, Mỹ nói với VOA. "Lê Duẩn muốn đưa
quân vào miền Nam rồi. Cuối cùng ông Hồ Chí Minh và đặc biệt là [Tổng Tư
lệnh quân đội] Võ Nguyên Giáp nói rằng đưa như vậy thì sẽ có cớ cho Mỹ
đưa quân vào. Đó là sau khi [Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình] Diệm
bị giết."
Sự chống đối của ông Hồ đối với kế hoạch quân sự của ông Duẩn vào năm 1963 bị đáp lại bằng chỉ trích và đe dọa.
Dựa
trên thông tin từ các văn khố của Đông Đức, sử gia Martin Grossheim
viết trong một bài nghiên cứu đăng trên chuyên san Lịch sử Chiến tranh
Lạnh vào năm 2005 rằng ông Duẩn đã cho ông Hồ lựa chọn "hoặc theo đường
lối của Bộ Chính trị hoặc đứng ra ngoài" vào năm 1963.
Sử
gia này dẫn nguồn từ đại sứ quán Đông Đức ở Hà Nội khi đó cho biết cái
gọi là "thuyết hai sai lầm" được tuyên truyền ngày càng rộng rãi trong
hàng ngũ đảng viên – rằng ông Hồ phạm hai sai lầm khi thỏa hiệp với
người Pháp vào năm 1945 và khi chấp nhận các điều khoản của Hiệp định
Genève năm 1954 chia đôi đất nước.
Gạt khỏi kế hoạch Tổng tiến công 1968
Bất
đồng một lần nữa bùng lên vào năm 1967 khi Lê Duẩn ra mắt chiến lược
quân sự nhằm lật đổ chính quyền Sài Gòn bằng các cuộc tấn công và nổi
dậy đồng loạt khắp các thành thị ở miền Nam. Kế hoạch này vấp phải sự
phản đối "ngay lập tức" từ các nhà lãnh đạo Đảng và quân đội và tiếng
nói có uy quyền nhất đến từ Hồ Chí Minh, theo học giả Nguyễn Thị Liên
Hằng, giáo sư lịch sử tại Đại học Columbia ở thành phố New York.
Bà viết trong cuốn sách “Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Vietnam” xuất bản năm 2012:
"Trong
nỗ lực cuối cùng của mình nhằm khẳng định uy quyền đối với cuộc cách
mạng mà ông chỉ lãnh đạo về mặt biểu tượng, Hồ Chí Minh lên tiếng công
kích. Đầu tiên, nhà lãnh đạo cao tuổi đặt nghi vấn về ‘tính chủ quan’
của kế hoạch của Lê Duẩn và [Tướng Văn Tiến] Dũng, ngụ ý rằng có lẽ vị
bí thư thứ nhất và vị tướng thiếu thực tế và lạc quan thái quá trong
những mục tiêu của họ cho cuộc tiến công sắp tới."
Ông
Hồ kêu gọi cẩn trọng nhưng ông Duẩn bỏ ngoài tai và xúc tiến kế hoạch
của mình. Khi phiên bản cuối cùng mang dấu ấn rõ ràng của ông Duẩn, ông
Hồ rời nước sang Bắc Kinh dưỡng bệnh.
Trong
khi ông vắng mặt một cuộc thanh trừng chính trị diễn ra ráo riết ở Hà
Nội nhắm vào những người bị gán mác theo "chủ nghĩa xét lại" và "chống
Đảng." Hàng chục nhân vật cao cấp trong Đảng và quân đội bị bắt giữ,
trong đó có những phụ tá và thuộc cấp của ông Hồ và của ông Võ Nguyên
Giáp. Ông Hồ một lần nữa chọn cách giữ im lặng.
Cuộc
Tổng Tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 thất bại và phe cộng sản chịu tổn
thất nhân mạng to lớn. Nhưng Lê Duẩn vẫn quyết theo đuổi chiến lược của
mình. Suốt mùa xuân và mùa hè năm đó, ông ra lệnh phát động thêm hai đợt
tiến công nữa nhưng chiến thắng vẫn không đến gần hơn.
Dịch chuyển chính sách
Cái
chết của ông Hồ là một cú giáng về tinh thần đối với Bắc Việt Nam giữa
những thất bại quân sự và một cuộc chiến gia tăng cường độ. Bom Mỹ vẫn
trút xuống miền Bắc và số lượng binh sĩ Mỹ tham chiến ở miền Nam lên đến
đỉnh điểm hơn 500.000 người trong năm 1969.
Hà Nội bắt đầu thi hành chính sách "vừa đánh, vừa đàm."
Những
cuộc thương thuyết chính giữa Bắc Việt Nam và Mỹ cuối cùng đưa đến Hiệp
định Paris mở đường cho việc lập lại hòa bình ở Việt Nam sau khi người
Mỹ rút đi. Chiến sự kéo dài đến năm 1975 khi quân cộng sản và Bắc Việt
Nam tiến vào Sài Gòn và chấm dứt chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Một
nước Việt Nam thống nhất là là một trong những di nguyện của Hồ Chí
Minh, nhưng có một di nguyện của ông sẽ không được đáp ứng.
Trước
khi ông qua đời, Trung ương Đảng được nói là đã xin phép bảo quản di
hài của ông cho hậu thế thay vì hỏa táng như ông căn dặn.
(VOA)
Không có nhận xét nào