Nhà văn Nam Cao bằng truyện ngắn „Đôi
mắt" nổi tiếng đã phê phán tầng lớp trí thức „trùm chăn" thờ ơ với thời
cuộc, không đi theo kháng chiến. Giáo sư toán học Hoàng Tuỵ, khi trở
thành một Trí thức nhận xét: "Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực,
chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức Việt Nam."
Xã hội Việt Nam đang có vấn đề thừa học hàm học vị nhưng thiếu trí thức |
Có
lẽ không chỉ đối với Nam Cao, Giáo sư Hoàng Tuỵ, mà còn với đa số người
Việt nam, trí thức chỉ giản dị là những người có một trình độ học vấn
nhất định và vì thế có trí thức tích cực, thì cũng có trí thức "trùm
chăn", có trí thức chạy theo danh hão, theo quyền lực.
Đây
là một sự ngộ nhận đã góp phần quan trọng gây không ít trở ngại cho sự
hình thành tầng lớp Trí thức tại Việt Nam. Trí thức không chỉ là một
danh từ, mà còn là - và trên hết là - một danh hiệu đáng tự hào.
Chỉ
những ai, bên cạnh các điều khác, không hề biết đến "trùm chăn", không
chạy theo danh hão, theo quyền lực,... mới có thể trở thành Trí thức.
Không phải cứ tốt nghiệp đại học, được công nhận là nhà văn, nghệ sĩ thì
đã là trí thức. Người ta chỉ có thể trở thành một Trí thức bằng những
hoạt động dấn thân.
Đòi công lý cho người bị oan
Năm
1895 Toà án nước Pháp tuyên án sĩ quan pháp binh Alfred Dreyfus tội
phản quốc và phạt ông tù chung thân, dù không có chứng cứ, không chỉ ra
được động cơ làm gián điệp của ông. Mặc dù vậy, đa số công chúng Pháp
vẫn coi Dreyfus có tội. Sau đó người ta tìm ra tên gián điệp thực sự là
Thiếu tá Esterhazy, nhưng lại được Toà án tuyên vô tội.
Khi
đó, Emile Zola - nhà văn, nhà báo và hoạ sĩ - đã viết thư ngỏ với tiêu
đề "Tôi buộc tội" (J'accuse), lên án mạnh mẽ quân đội và chính phủ về
mặt đạo đức, phê phán sắc bén những sai phạm về thủ tục tố tụng và đòi
hỏi công lý cho Dreyfus.
Thư
ngỏ của Emile Zola có tiếng vang lớn và thu hút hơn 2000 nhà khoa học,
nhà văn, nghệ sĩ, người làm nghề tự do, ký tên vào danh sách những người
yêu cầu trả tự do cho Dreyfus. Clemenceau cho công bố danh sách này
trên tờ "Le Journal" ngày 23/01/1898 và lần đầu tiên ông đặt tên cho
danh sách ấy là " Sự Phản đối của các Trí thức".
Sự
phản đối của các Trí thức đã thúc đẩy một cuộc thảo luận toàn dân về
những giá trị trừu tượng như Sự thật và Công lý, mà sau cùng đã dẫn đến
ân xá và trả tự do cho Dreyfus.
Từ
đó đến nay, ở rất nhiều quốc gia, khi đề cập đến vai trò của cá nhân
trong sự tồn vong của dân tộc, đối với sự phát triển quốc gia, Trí thức
đã trở thành một danh hiệu để chỉ những người có khả năng và sự dấn thân
như những người trong danh sách "Sự phản đối của các Trí thức".
Họ
là những người có khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, biết dấn thân
cho điều mình tin là đúng vì lợi ích cộng đồng và sự phát triển đất
nước. Trí thức chính là nguồn hình thành tầng lớp ưu tú của xã hội, gồm
những người được xã hội kính trọng, có ảnh hưởng rộng lớn và quan trọng
mang tính định hướng cho sự hình thành các giá trị cốt lõi của xã hội,
đến sự phát triển đất nước.
Nhưng
cũng có nơi Trí thức được xem như tiếng chửi rủa, miệt thị. Trong chế
độ quốc xã của Adolf Hitler, Trí thức được dùng để chỉ những ai chống
lại Chủ nghĩa và Đảng Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa, phải bị cô lập và loại
bỏ ra khỏi xã hội.
Thông
thường, để có khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, người ta phải được
đào tạo để có một trình độ học vấn nhất định. Nhưng không hiếm người có
được khả năng đó qua kinh nghiệm sống, qua tự học, Ngược lại, nhiều
người được đào tạo có bằng cấp, mà không có khả năng phân biệt ấy.
Nền
giáo dục Việt Nam hiện đại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà đặc biệt
là do mục tiêu và triết lý giáo dục không đúng, khó có thể trang bị cho
học sinh, sinh viên khả năng suy nghĩ độc lập, biết tự chủ phân biệt
đúng sai, tốt xấu, mà không phụ thuộc vào ý thức hệ tư tưởng, vào các
giá trị đạo đức, cũng như quan điểm chính trị chính thống.
Trí thức ra đời cùng thay đổi công nghệ và thời cuộc
Vì
vậy, hầu như không có tiền đề cho sự hình thành Trí thức. Tuy nhiên,
cùng với sự bùng nổ thông tin qua mạng Internet, cơ hội tự học, tự hoàn
thiện bản thân ngày càng nhiều, cũng góp phần hình thành những cá nhân
có khả năng phân biệt của một Trí thức.
Trí
thức phân tích, đặt câu hỏi, bình luận và phê phán các sự kiện, hoạt
động của xã hội trong các buổi bàn luận, tranh luận công khai để người
dân biết và có thể đánh giá. Không có các buổi này, cũng không thể hình
thành Trí thức.
Một
đặc trưng quan trọng của Trí thức, là họ tranh luận, nói về các sự
kiện, các hoạt động về cơ bản là không đụng chạm đến quyền lợi cá nhân
mình. Quan điểm, cách nhìn và thái độ của Trí thức độc lập với chính
quyền. Chúng có thể phù hợp, hoặc ngược lại với chính quyền.
Nếu
phù hợp, đó sẽ là một động lực quan trọng cho sự phát triển đất nước
một cách sáng tạo. Nếu không, và khi bị chính quyền theo dõi, trấp áp,
Trí thức sẽ trở thành những nhà đối lập.
Nói
một cách khác, Trí thức vừa là người tạo ra các giá trị tư tưởng, vừa
là người phê phán chúng; vừa là người ủng hộ chính quyền, vừa là người
đối lập.
Nhưng,
tự bản chất của mình, Trí thức thực thụ không bao giờ là mối nguy hiểm
cho xã hội, không bao giờ là người phản bội tổ quốc.
Những
Trí thức có thể hình thành một mối quan hệ đặc biệt và không chính thức
với nhau để hình thành một nhóm, một cộng đồng Trí thức.
Nhưng đó là phải là một cộng đồng hình thành trên cơ sở tuyệt đối tự do, tự nguyện và không ràng buộc.
Các
tổ chức, Hiệp hội đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, của
chính quyền, hoặc có lãnh đạo là các cán bộ đảng, chính quyền về hưu,
không thể là cộng đồng có thể hình thành Trí thức, hay bảo đảm được sự
hoạt động của Trí thức.
Sự
dấn thân của Trí thức thể hiện trước hết ở lòng dũng cảm và bằng mọi
cách nói lên những vấn đề xã hội quan tâm hoặc cần phải quan tâm, dù có
thể nghịch tai nhà cầm quyền.
Khi
truyền thông chính thức không có chỗ cho những buổi tranh luận công
khai, khi phải trình bày ý kiến của mình trong khuôn khổ một tổ chức
chính thống, theo một gợi ý bắt buộc về nội dung, người Trí thức chắc
chắn sẽ tìm đến những khả năng khác.
Ngày
nay, sự kết nối dễ dàng - và không thể ngăn chặn - với các trang mạng
xã hội, các tổ chức truyền thông quốc tế, đã tạo ra những diễn đàn thuận
lợi cho hoạt động của Trí thức ở bất kỳ quốc gia nào.
Chúng
ta gọi các sinh viên mới tốt nghiệp, nhà văn, nghệ sĩ trẻ,...là trí
thức, trong khi họ chưa thể là Trí thức; gọi các nhà khoa học trưởng
thành, văn nghệ sĩ "cây đa, cây đề" là trí thức, trong khi thiếu hẳn các
điều kiện xã hội, các buổi tranh luận tự do, công khai, để họ có thể
trở thành Trí thức.
Nhưng
lại trông đợi, hy vọng và đòi hỏi họ phải có đầy đủ những giá trị và
tác động tích cực của một Trí thức đúng nghĩa. Đó là một nghịch lý không
thể chấp nhận, không thể tiếp tục dung dưỡng.
Muốn
xây dựng được một xã hội văn minh dân sự, một đất nước phát triển mạnh
mẽ bằng sức sáng tạo, chúng ta sẽ phải cần Trí thức. Nhưng, người ta
không thể đào tạo Trí thức, mà chỉ có thể tạo điều kiện để hình thành
Trí thức.
Ở
Việt Nam, ngoài việc phải cải tổ một cách căn bản hệ thống giáo dục và
quan niệm đúng đắn về Trí thức, có lẽ chỉ cần loại bỏ những rào cản, trở
ngại, hiện đang không khuyến khích sự xuất hiện Trí thức, đồng thời cần
minh định rõ: Trí thức không phải là nguyên nhân gây bất ổn xã hội, là
mối nguy hiểm cho chế độ.
Nguyễn Vân Nam
*
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của luật sư Nguyễn Vân Nam, giáo sư
đại học Humboldt, CHLB Đức. Hiện ông đang sống và làm việc ở TPHCM.
(BBC)
Không có nhận xét nào