Năm 1945: Liên Xô không ưa Pháp nhưng để Pháp quay lại VN
Stalin và Truman ở Potsdam 7-8/1945. Tại hội nghị này, các đại cường thắng trận trong Thế Chiến 2 đã quyết định số phận của nhiều dân tộc nhỏ |
Một trong
những vấn đề của lịch sử Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 là không
một đại cường nào thuộc phe Đồng Minh thắng trận công nhận chính
phủ Hồ Chí Minh.
Trước đó, chính phủ Đế quốc Việt Nam với thủ tướng là Trần Trọng Kim năm 1945 cũng không được Đồng Minh công nhận.
Các nước lớn khi đó tập trung vào việc làm gì với Pháp và quyết tâm phục hồi chủ quyền của Paris ở cựu thuộc địa Đông Dương.
Moscow,
Washington, London đã coi vấn đề của các lực lượng bản địa ở châu Á nói
chung, và Việt Minh nói riêng, là thứ yếu so với chính sách lớn hơn
của họ.
Không ưa Pháp nhưng vẫn ủng hộ Pháp
Tư
liệu từ hội đàm tại Tehran, trong hội nghị ba đại cường Mỹ, Anh,
Liên Xô 28/11/1943 cho thấy Moscow và Washington đã khá đồng quan điểm
ban đầu về Pháp trong và sau chiến tranh.
Tổng
thống Hoa Kỳ Roosevelt không muốn Pháp quay lại chiếm Đông Dương, còn
Stalin thì nói thẳng ra là quân Đồng Minh không nên đổ máu ở chiến
trường đó.
Vào thời điểm diễn ra Hội nghị Tehran năm 1943, Đông Dương vẫn nằm trong tay đế quốc Nhật.
Hai nhà lãnh đạo Liên Xô và Mỹ thậm chí còn chia sẻ cách nhìn coi thường người Pháp.
Trong
tài liệu có nội dung nêu trên do Thomas G. Paterson và Dennis Merrill
biên tập và ấn hành năm 1995, Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt nhắc lại với
Nguyên soái Stalin điều ông nghe được từ thủ tướng Anh, Winston
Churchill.
Quan điểm của Churchill là nước Pháp sẽ nhanh chóng được tái thiết để trở thành quốc gia mạnh.
Roosevelt nói với Stalin ông không nghĩ như vậy mà cho rằng "Pháp cần nhiều năm làm việc cực nhọc để phục hồi vị trí".
"Điều cần thiết, cho cả người dân, và chính phủ Pháp, là trở thành các công dân trung thực."
"Nguyên
soái Stalin đồng ý và còn nói thêm rằng ông không hề đề nghị để quân
Đồng Minh phải đổ máu nhằm phục hồi Đông Dương cho chế độ thực dân cũ
là Pháp", tài liệu trích thuật lại lời nhà lãnh đạo Liên Xô.
"Stalin
cũng nói điều quan trọng là không chỉ đánh quân Nhật về quân sự, mà
cần chống lại Nhật về chính trị, do Nhật đã trao độc lập, tuy chỉ là
hình thức thôi, cho một số vùng thuộc địa. Ông nhắc lại rằng Pháp
không thể được cho phép giành lại Đông Dương, và người Pháp phải trả giá
cho sự hợp tác tội phạm (criminal collaboration) với Đức."
"Tổng
thống Roosevelt nói ông đồng ý 100% với Nguyên soái Stalin và nêu ý
kiến rằng sau 100 năm Pháp chiếm Đông Dương, người dân ở đó có cuộc
sống tệ hơn trước."
Thế nhưng Moscow và Washington đã dần thay đổi quan điểm về Đông Dương.
Trước khi phát-xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh ở châu Âu và trước lúc Nhật Bản thua trận, vào tháng 4/1945, Roosevelt qua đời.
Tổng
thống kế nhiệm, Harry Truman lên cầm quyền và thay mặt Hoa Kỳ dự hội
nghị Potsdam đề bàn về tình hình thế giới hậu chiến, gồm cả vùng Đông
Á.
Chính phủ Pháp tự do của tướng Charles de Gaulle đã vận động ráo riết để Hoa Kỳ hỗ trợ nhằm giành lại các thuộc địa.
Dù không được dự hội nghị Potsdam, Pháp vẫn đề nghị để quân của họ giải giáp quân Nhật ở Đông Dương nhưng bị từ chối.
Các
đại cường để quân Anh vào Việt Nam giải pháp quân Nhật ở dưới vĩ
tuyến 16, và nhiệm vụ tương tự phía Bắc giao cho Trung Hoa Dân quốc
(Đồng Minh chống Nhật).
Theo
sử gia David Marr, sự hiện diện của chính quyền Việt Minh năm 1945
tại Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đặt ra một vấn đề khó khăn cho
các đại cường.
Vào tháng 4/1945, Hoa Kỳ đề nghị để lập chế độ ủy trị (trusteeship) với Việt Nam nhưng bị Pháp kịch liệt phản đối.
Mỹ có thái độ không hoàn toàn rõ ràng và để Anh giúp Pháp quay lại Đông Dương.
Anh đã chuyển quân trang quân dụng trên đường từ Ấn Độ về châu Âu cho Pháp để tướng Leclerc chuẩn bị quay lại Sài Gòn.
Liên Xô có vai trò rõ ràng ở hơn Triều Tiên vì nhận nhiệm vụ giải pháp quân đội Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 38.
Với
Stalin, châu Á là Đông Bắc Á, Trung Á và Mông Cổ, còn tại Đông Dương,
Moscow không thấy có quyền lợi gì để công nhận chính phủ Hồ Chí Minh.
Trong
cuốn 'Vietnam: State, War, and Revolution (1945-1946)', David Marr viết
rằng Stephane Solovieff, đại diện của Liên Xô ở Hà Nội đã gặp Hồ Chí
Minh và biết ông Hồ là một 'đồng chí cộng sản'.
Nhưng
ông Solovieff, người thạo cả tiếng Anh, Pháp, và Nhật, muốn giữ quan
hệ trung dung, tốt đẹp với tất cả các bên: Nhật, Hoa, Việt Nam và
Pháp.
Vẫn
theo David Marr, ông Solovieff nói với thiếu tá OSS của Hoa Kỳ
Archimedes Patti, người từng tuyển ông Hồ Chí Minh cho công tác tình báo
theo dõi quân Nhật ở Đông Dương, rằng nước Nga Xô Viết "cần thời gian
để phục hồi, tái thiết trước khi xác định vị thế ở Đông Nam Á".
Người
Liên Xô này còn nói rằng theo ông "Người Pháp rất cần có mặt để dẫn
đạo giúp cho người Việt Nam đi đến chỗ có khả năng tự chủ
(self-government)".
Không
chỉ như vậy, từ đầu năm 1946, Solovieff cộng tác chặt chẽ với cao ủy
Pháp, Jean Sainteny, người đã giúp ông ta đi tàu thuỷ về Paris.
Theo
bài của Merle Pribbenoff được Trung tâm Wilson lưu trữ thì Liên Xô cũng
không trợ giúp Việt Minh chút gì về an ninh, tình báo dù có cử an ninh
sang.
Các tài liệu của Anh cho hay khi quân Anh vào Sài Gòn, họ bắt được một người Liên Xô hoạt động tình báo tại đó.
Theo
Pribbenoff, điều trớ trêu là các nhân vật chủ chốt của an ninh tình
báo Việt Minh như Trần Hiệu, Lê Giản đều "học nghề" từ tình báo Mỹ và
một đại tá Nhật đi theo Việt Minh.
Có vẻ
như những gì Solovieff nói và làm không chệch ra khỏi đường lối chung
của Moscow khi đó, đặt các vấn đề châu Âu lên cao hơn Đông Dương.
Tháng
12/1944, Moscow đã ký với phe kháng chiến Pháp một hiệp ước, tương tự
với Anh, coi Pháp có vị thế "đồng minh của Liên Xô cùng chống Đức
phát-xít".
Có
giá trị 20 năm, hiệp ước này nhằm xóa bỏ mọi đe dọa từ Đức, thỏa
thuận các vấn hậu chiến ở châu Âu, liên quan nhiều đến Đức, biên giới
Tây Âu ở Bỉ, Hà Lan...
Một
số nhà nghiên cứu tin rằng sự ủng hộ không có gì của Liên Xô cho chính
thể VNDCCH có lý do cá nhân, rằng với họ, với ông Hồ chưa 'đủ chất
cộng sản'.
Tuy
nhiên, ý kiến này có vẻ không đúng nếu ta nhìn vào sự thiếu vắng ủng
hộ của Liên Xô dành cho một quốc gia lớn hơn Việt Nam là Indonesia.
Theo
Guy Faulker viết trên Foreign Affairs (The Soviet Challenge in
Indonesia), sau khi người Indonesia tuyên bố độc lập khỏi Hà Lan
(17/08/1945), Moscow chỉ ủng hộ họ tại Liên Hiệp Quốc trên nguyên tắc
"chống chủ nghĩa đế quốc".
Trên
thực tế, Moscow quan tâm nhiều hơn về quan hệ với Hà Lan ở châu Âu, và
không công nhận chính phủ Sukarno ở Jakarta, dù ông Sukarno nhiều lần
kêu gọi.
Báo
chí Liên Xô còn phê phán tổng thống Sukarno là "tư sản' và đặt hy vọng
và cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 9/1948 (sự kiện Madiun - 'Cộng
hòa Xô Viết Indonesia') của đảng cộng sản địa phương.
Rút cục, Liên Xô không giúp cho cả Đảng Cộng sản Indonesia lẫn chính phủ Sukarno.
Sự công nhận Indonesia chỉ đến đầu năm 1950, sau khi Indonesia đã ký thỏa thuận chuyển chủ quyền từ Hà Lan cuối 1949.
Điều lạ là Liên Xô công nhận chính quyền Indonesia theo yêu cầu của Hà Lan và sau cả Mỹ và Anh.
Muốn theo Liên Xô nhưng chỉ thấy Pháp và Trung Quốc
Nếu
như Liên Xô không muốn dính vào Đông Dương về mặt nhà nước, việc
riêng với Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh lại được Moscow 'giao'
cho Đảng Cộng sản Pháp quyết định.
Vấn
đề là sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Pháp tham gia liên minh cầm quyền
và không hề mặn mà gì trong việc giúp ông Hồ Chí Minh giành lại độc
lập toàn bộ.
Ước
vọng của tướng Charles de Gaulle muốn giành lại các thuộc địa được cử
tri Pháp rất ủng hộ và vẫn là động lực của các chính phủ Pháp kế
nhiệm kể cả sau khi Charles de Gaulle từ chức tháng 1/1946.
Điều
này khiến chủ tịch VNDCCH sau chuyến sang Pháp năm 1946 trở về thấy
thất vọng về quan hệ cũ của ông với các 'đồng chí cộng sản Pháp', theo
David Marr.
Một lối đi nữa cho chính quyền VNCDCH là kêu gọi lên Liên Hiệp Quốc.
Sau
khi quân Anh vào Sài Gòn cuối 1945, sang tháng 1/1946, Hồ Chí Minh gửi
thư cho Henri Spaak, chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đề nghị đưa
vấn đề Việt Nam vào nghị trình bàn thảo, nhưng không nhận được trả
lời.
Điều
dễ hiểu là các cường quốc châu Âu đã ngồi trong Hội đồng Bảo an như
Liên Xô, Pháp chống lại mọi cố gắng được công nhận của người Việt Nam.
Mỹ và Anh cũng có mặt trong Hội đồng Bảo an thì nghiêng về phía Paris.
Những
khó khăn của chính phủ VNDCDH diễn ra trong bối cảnh dù không được
Moscow ủng hộ, báo chí của Việt Minh tiếp tục ca ngợi Liên Xô và
Stalin.
Một số tờ báo Việt Minh, kể cả ở các tỉnh, có bài ca ngợi xã hội Liên Xô và các tấm gương anh hùng Xô Viết.
Sang
mùa hè 1946, cây bút của Đảng, ông Trần Huy Liệu bắt đầu có loại bài
phân biệt rõ Liên Xô và Hoa Kỳ, "với đường lối để VNDCCH cùng nhịp với
Liên Xô", theo David Marr.
Cùng lúc, báo của phe dân tộc chủ nghĩa Việt Nam thì có các bài gọi Stalin là độc tài đỏ.
Mầm
mống của cuộc đấu tranh ý thức hệ Quốc - Cộng đã bắt đầu từ đó giữa
người Việt với nhau cho dù các đại cường chưa chú ý đến Việt Nam.
Vấn
đề của VNDCCH với Liên Xô xem ra còn tiếp tục kể cả sau khi lực lượng
Việt Nam đã lớn mạnh và được Moscow công nhận đầu 1950, theo
Pribbenoff.
Stalin đã giao phó việc trợ giúp Hồ Chí Minh cho Mao Trạch Đông còn Liên Xô vẫn giữ khoảng cách với VNDCCH.
Trung
Quốc đóng vai trò chủ chốt trong "chỉnh huấn, chỉnh quân" để biến Việt
Minh thành hệ thống chính trị Maoist, với nhiều di sản thể chế ở Việt
Nam.
Tóm
lại, sau 02/09/1945, ước vọng độc lập của người Việt Nam không được
đặt vào nghị trình gì hết của các đại cường thắng trận, kể cả Liên Xô.
Những
sợi dây ý thức hệ của Việt Minh với Đảng Cộng sản Liên Xô và Pháp
không tác động được được tới tính toán quyền lợi lớn hơn của các đại
cường châu Âu.
Những
bài học này có thể vẫn còn ý nghĩa khi ta nhìn vào các diễn biến địa
chính trị gần đây nhất, trong quan hệ Việt Nam với Nga, EU và Trung
Quốc.
(BBC)
Không có nhận xét nào