Về lý do Trung Quốc đột nhiên xâm
lấn khu vực Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, nhiều giả thuyết đã được đưa ra. Trong bài phân tích «
Tại sao Bãi Tư Chính, và tại sao vào lúc này ? - Why Vanguard
Bank and Why Now ? », công bố ngày 16/08/2019 trên trang mạng
Maritime Issues, chuyên gia Mỹ Derek Grossman thuộc trung tâm tham
vấn Rand Corporation, đã đưa ra một giải thích lý thú về hành
vi này của Trung Quốc tại Biển Đông.
Ảnh tư liệu chụp quần đảo Trường Sa (Biển Đông) ngày 21/04/2017. |
Theo
nhà nghiên cứu Mỹ, « Bắc Kinh có lẽ đang thăm dò sự bền bỉ của
tiến trình củng cố quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam », vào
lúc mà Hà Nội đã có những mối nghi ngờ thực sự về tính bền
vững của các cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với các đồng minh.
Tác
giả cho rằng việc Mỹ để yên cho Trung Quốc chiếm lấy bãi cạn
Scarborough vào năm 2012 từ tay Philippines, dù Manila là một đồng
minh kết ước của Washington, là một ví dụ kinh điển giải thích
thái độ hoài nghi của Hà Nội về tính đáng tin cậy của
Washington.
Chuyên
gia Derek Grossman trước hết ghi nhận rằng trong những cuộc thảo luận
gần đây với các nhà nghiên cứu Việt Nam, có một câu hỏi được nhắc đi
nhắc lại : Sau một thời gian dài tương đối bình lặng trong quan hệ với
Việt Nam trên vấn đề Biển Đông, tại sao Trung Quốc lại bất ngờ quyết
định đánh vào Bãi Tư Chính ?
Từ vụ Hải Dương 981, Trung Quốc không ngừng gây hấn với Việt Nam tại Biển Đông
Đối
với ông Grossman, có nhiều yếu tố có thể trả lời cho câu hỏi đó, mà
đầu tiên hết là Trung Quốc chưa bao giờ dừng việc gây hấn với Việt Nam
trong vòng năm năm qua, cho dù vụ Bãi Tư Chính là một vụ căng thẳng tệ
hại nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông kể từ vụ giàn
khoan Hải Dương 981 vào tháng 5/2014.
Trong
hai năm liên tiếp, Trung Quốc đã gây áp lực rất lớn không cho Việt Nam
việc khoan dò ở các khu vực mà Việt Nam coi là thềm lục địa của mình
theo Luật Biển Liên Hiệp Quốc, nhưng bị Trung Quốc coi là khu vực
tranh chấp.
Vào
năm 2018 chẳng hạn, Bắc Kinh đã buộc Hà Nội hủy hợp đồng thăm dò ở
ngoài khơi bờ biển phía Nam Việt Nam với công ty năng lượng Tây Ban Nha
Repsol. Ngoài ra, tàu dân quân biển Trung Quốc bị cáo buộc là
thường xuyên đâm tàu đánh cá Việt Nam, ngay cả khi Hà Nội trong đa số
trường hợp, đều tránh nêu bật các sự cố đó để duy trì ổn định trong
quan hệ song phương.
Tuy
nhiên, căng thẳng đã xuất hiện mạnh trở lại vào đầu năm nay, và rốt
cuộc Việt Nam đã quyết định cho trưng bày một chiếc tàu đánh cá Việt Nam
bị đâm chìm trong vụ Hải Dương 981, đồng thời cho công bố tài liệu
video về hành vi của tàu Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam vào thời đó.
Đối
với chuyên gia Grossman, Trung Quốc không chỉ hung hăng với Việt Nam,
mà cả với các nước khác có biển đảo bị Bắc Kinh tranh chấp. Tác giả nêu
bật ba trường hợp.
Bắt
đầu từ cuối năm ngoái, hàng trăm tàu dân quân biển Trung Quốc đã tràn
đến bao vây đảo Thị Tứ đang tranh chấp với Philippines. Các chiến
thuật « vùng xám » như thế được dùng để sách nhiễu ngư dân
Philippines và tạo ra căng thẳng với Manila.
Bắc Kinh từ năm 2013 cũng đã không ngừng cho tàu vào tuần tra ở khu vực bãi cạn Luconia mà họ tranh chấp với Malaysia.
Còn
ở ngoài vùng Biển Đông, Trung Quốc đã đẩy mạnh số vụ xâm nhập vào khu
vực tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông do Nhật Bản kiểm
soát.
Trung Quốc tự tin có dư sức mạnh để đánh bại Việt Nam
Hành
vi xâm lấn Bãi Tư Chính, theo chuyên gia Grossman, còn xuất phát từ
việc Bắc Kinh cảm thấy đã có dư sức mạnh quân sự để thách thức Việt Nam
cũng như các nước trong khu vực có tranh chấp với Trung Quốc.
Trung
Quốc có lực lượng hải quân, hải cảnh và dân quân biển lớn nhất thế
giới, và quân đội Trung Quốc không ngừng rèn luyện năng lực hợp đồng tác
chiến giữa Hải Quân và Không Quân để có thể chiến đấu ở Biển Đông,
Biển Hoa Đông hoặc để đánh chiếm Đài Loan.
Ngoài
ra, việc Trung Quốc đã hoàn tất các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo ở
Trường Sa, và thiết lập các căn cứ hải quân và không quân rải rác trên
Biển Đông, dù ở Hoàng Sa hay Trường Sa, điều đó đã cung cấp cho Bắc Kinh
những điểm tựa mới để cung cấp nhiên liệu, giúp họ dễ dàng tuần tra
liên tục các khu vực tranh chấp.
Một
ví dụ : Vào đầu tháng 8 này, một tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của
Trung Quốc, sau nhiều tuần hoạt đông ở Bãi Tư Chính, đã trở về tìm tiếp
liệu không phải ở bờ biển Trung Quốc xa xôi, mà là ở ngay một trong
những căn cứ hải quân mới của Bắc Kinh trên Đá Chữ Thập ở Trường Sa. Đến
giữa tháng 8, thì chiếc tàu này lại trở lại vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam (EEZ).
Nhìn
xa hơn, nếu Bắc Kinh xây dựng xong các cơ sở hải quân và không quân ở
Cam Bốt, thì Việt Nam sẽ phải đối mặt với một mối đe dọa mới ở sườn phía
Tây của mình.
Quan hệ xấu đi với Mỹ khiến Bắc Kinh thêm hung hăng
Một
nguyên nhân khác là quan hệ xấu đi với Mỹ trong những năm gần đây, đặc
biệt là trên hồ sơ Biển Đông. Điều này đã khiến Bắc Kinh ngày càng tìm
cách bảo vệ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc chống lại các hoạt
động bảo vệ tự do hàng hải (FONOPs) do Hoa Kỳ tiến hành.
Chuyên
gia Grossman đã nhắc lại là vào cuối tháng 6, lần đầu tiên, quân đội
Trung Quốc đã thử nghiệm ở khu vực gần quần đảo Trường Sa, một tên lửa
đạn đạo chống hạm, có lẽ là loại gọi là « sát thủ tàu sân bay » DF-21D
và một biến thể của loại DF-26 có tầm hoạt động xa hơn.
Những
vụ Trung Quốc cho chiến hạm bám đuôi tàu Mỹ tiến hành các chiến dịch
tuần tra, và cảnh cáo rằng các chiếc tàu đó đã xâm phạm bất hợp pháp
vùng biển nội địa Trung Quốc, đã làm gia tăng căng thẳng trong những
tháng gần đây. Vụ việc lớn cuối cùng xảy ra vào đầu tháng 10 năm 2018
khi một khu trục hạm lớp Lữ Dương của Hải Quân Trung Quốc đã áp sát tàu
khu trục Mỹ USS Decatur, chỉ cách khoảng 45 mét.
Theo
ông Grossman, quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc ngày càng xấu đi có thể dẫn đến
hành vi quyết đoán hơn của Trung Quốc để đẩy lùi không chỉ Mỹ, mà tất
cả các nước khác trong khu vực.
Thăm dò độ bền của quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt đang càng lúc càng chặt chẽ hơn
Xuất
phát từ các yếu tố kể trên, chuyên gia của Rand Corporation cho rằng
khi thách thức Việt Nam tại Bãi Tư Chính, Trung Quốc có thể là đang thăm
dò độ bền chắc của mối quan hệ quân sự ngày càng sâu sắc giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam.
Theo
ông Grossman, Việt Nam đã băn khoăn nghiêm túc về tính bền vững của các
cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với các đồng minh. Vụ Trung Quốc lấn
chiếm bãi cạn Scarborough từ tay Philippines vào năm 2012 là ví dụ điển
hình khiến cho Việt Nam thận trọng. Vào năm 2014, nhân vụ giàn khoan Hải
Dương 981, Việt Nam cũng chỉ được Mỹ ủng hộ bằng lời nói, tương tự như
lúc này nhân vụ Bãi Tư Chính.
Đối
với chuyên gia Grossman, ngoài việc trắc nghiệm quan hệ Mỹ-Việt, không
may cho Việt Nam, rất có thể là vụ Bãi Tư Chính là cơ hội mà Quân Đội
Trung Quốc tìm kiếm để kiểm tra năng lực phối hợp tác chiến ngày càng
tăng của họ.
Chuyên
gia Grossman đã phân tích ý đồ đánh Việt Nam để tập luyện này trong một
bài nghiên cứu công bố hồi tháng 5. Tuy nhiên, để có thể tập luyện đúng
nghĩa, Trung Quốc bị buộc phải điều tàu chiến đến khu vực, và điều đó
chưa xẩy ra.
Dẫu
sao thì Việt Nam hiện không có liên minh quân sự với bất kỳ nước nào,
và chỉ là một cường quốc trung bình, với quân đội, lực lượng chấp pháp
và dân quân biển còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu trên biển, nên có thể
bị đánh bại tương đối dễ dàng.
Quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ sẽ có sức răn đe Trung Quốc
Cho
dù vậy, theo chuyên gia Grossman, có lẽ câu hỏi nổi bật hơn hết trong
vụ Bãi Tư Chính hiện nay là Việt Nam có thể làm gì để ngăn chặn Trung
Quốc ?
Đối
với ông Grossman, cho dù việc tăng cường quan hệ đối tác quốc phòng với
Mỹ, trước mắt có thể gây rắc rối cho quan hệ Việt-Trung, nhưng hợp tác
Mỹ-Việt chặt chẽ hơn về lâu dài có thể giúp Việt Nam ngăn chặn Trung
Quốc bởi vì Bắc Kinh sẽ hiểu rõ là Việt Nam có thể được Mỹ hỗ trợ trong
trường hợp nổ ra xung đột.
Còn
đối với Mỹ, chuyên gia Grossman cho rằng Washington sẽ phải chứng minh
rằng họ sẽ không để xảy ra một vụ bãi cạn Scarborough thứ hai. Tăng
cường hợp tác với Việt Nam, và với các đối tác quốc phòng khác như Úc,
Nhật Bản và Ấn Độ, cũng có thể giúp ngăn chặn Bắc Kinh.
(RFI)
Không có nhận xét nào