Việt Nam có thể cho phép quân đội Mỹ
và Nhật Bản vào Cam Ranh và Đà Nẵng, từ đó có thể tuần tra biển Đông.
Nếu Trung Quốc vẫn quyết tâm biến biển Đông thành ao nhà của mình thì
các nước cần hình thành một liên minh mạnh mẽ đảo ngược trạng thái mất
cân bằng quyền lực, chuyên gia Vuving khuyên.
Cam Ranh giúp đập tan mưu đồ “lãnh chúa” Biển Đông |
Những
hình ảnh chụp từ vệ tinh được IHS Jane’s phân tích cho thấy Trung Quốc
đã xây dựng trên Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa một một đường băng
dài 3.000m và một hải cảng đủ lớn cho các tàu chở dầu và tàu chiến lớn
neo đậu. Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc làm vậy, đảo này là
hòn đảo nhân tạo mới nhất được Trung Quốc xây dựng trong chuỗi hành động
xây đảo lấn biển mà nước này đang tiến hành ở cả quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa trên biển Đông.
Trung
Quốc xây đảo nhân tạo để làm gì? Mục đích tối thượng của những dự án
này là gì? Lăng kính thông thường chúng ta sử dụng để giải mã các động
thái chiến lược trên trường quốc tế không phù hợp để trả lời những câu
hỏi ấy. Lăng kính thông thường nhìn trò chơi giữa các quốc gia dưới góc
độ cờ vua, nhưng ở biển Đông, Trung Quốc lại đang chơi cờ vây.
Cờ
vây là loại cờ cổ xưa nhất Trung Hoa, mang nhiều điểm tương đồng với
một dòng tư duy chiến lược truyền thống có nhiều ảnh hưởng của Trung
Hoa. Trong khi cờ vua là trò chơi chiếu tướng thì cờ vây, như tên gọi
của nó, lại là trò bao vây. Trong cờ vây, không có vua, hậu hay tốt mà
chỉ có những quân cờ giống nhau, quyền lực của chúng phụ thuộc vào vị
trí của chúng trong tương quan rộng lớn hơn trên bàn cờ. Nếu như cờ vua
là cuộc chiến giữa hai đội quân thì cờ vây là cuộc chiến của những tính
toán định hình bàn cờ. Người chơi cờ vua giỏi nhắm đến việc đập tan sức
mạnh cứng của đối phương, người chơi cờ vây giỏi nhắm đến việc kiểm soát
các vị trí chiến lược, từ đó lan tỏa sức mạnh dựa trên vị trí.
Nếu
coi biển Đông là một bàn cờ vua thì những động thái của Trung Quốc ở đó
hầu như chỉ là vặt vãnh. Hầu như chỉ có tốt tiến quân, trong khi những
quân cờ quyền lực hơn không có mấy động thái. Có lẽ vị trí đáng gờm nhất
trên bàn cờ là căn cứ tàu ngầm hạt nhân ở Du Lâm phía nam đảo Hải Nam.
Tuy nhiên, căn cứ này không nằm trong vùng biển tranh chấp. Quân đội
hiếm khi là lực lượng chính tham gia vào tranh chấp biển Đông, mà chủ
yếu là tàu đánh bắt cá và tàu hải cảnh. Và tâm điểm tranh chấp lại là
những đá nhỏ, không thể cư ngụ và thường chìm.
Thoạt
nhìn trò chơi này dưới góc độ cờ vua, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Mỹ
từng nói “các cường quốc không gây chiến với nhau chỉ vì những hòn đá”
và một học giả hàng đầu về hàng hải Trung Quốc kết luận: “những căng
thẳng giữa một cường quốc mới nổi và các nước láng giềng là tự nhiên và
không cấu thành mối đe dọa đáng kể nào đối với cân bằng quyền lực toàn
cầu cũng như hoạt động bình thường của hệ thống quốc tế.”
Nhưng
dưới con mắt của người chơi cờ vây, những gì mà Trung Quốc làm ở biển
Đông là ví dụ kinh điển cho thấy nước này đã chơi môn cờ vây tài tình
thế nào. Mục đích tối thượng là nhằm kiểm soát khu vực. Chiến lược để
đạt được mục đích này dựa vào việc lấn dần, chứ không phải những trận
giao tranh lớn. Lấn dần theo kiểu tằm ăn dâu là một chiến lược đã được
thực hiện trong suốt nhiều thập kỷ. Song song với chiến lược này là
chiến lược cắt lát salami và ngoại giao gậy nhỏ (tức đe dọa ở mức độ vừa
phải). Logic ẩn dưới đó là dần dần biến chuyển tình hình theo hướng có
lợi cho sự bành trướng của Trung Quốc bằng cách khéo léo dùng thủ đoạn
thay đổi thế chiến lược trong khu vực.
Chiến
lược này đòi hỏi một số bước đi cần thiết, thực hiện tuần tự. Đầu tiên
là hết sức tránh các cuộc xung đột vũ trang công khai; có thể khởi phát
xung đột nhỏ, nhưng việc ấy chỉ được thực hiện nhằm lợi dụng tình hình
vốn đã có lợi cho Trung Quốc. Bước thứ hai là kiểm soát những điểm chiến
lược nhất trên biển; nếu không kiểm soát từ trước thì có thể lén lút
chiếm, thậm chí có thể có xung đột nhỏ nếu cần. Bước thứ ba là phát
triển những điểm đó thành điểm kiểm soát mạnh, tích cực xây dựng các
trung tâm hậu cần và căn cứ hiệu quả để phô trương sức mạnh. Lịch sử can
dự của Trung Quốc ở xung đột biển Đông cho thấy nước này đã theo sát
những đường đi nước bước kể trên.
Mặc
dù Trung Quốc sẵn sàng lao vào đối đầu quân sự, nhưng nước này vẫn
thường tránh viện đến các cuộc chiến vũ trang lớn để mở rộng không gian
kiểm soát. Trong suốt 60 năm qua, chỉ có hai lần Bắc Kinh phát động xung
đột quân sự để chiếm đảo. Lần thứ nhất vào tháng 1/1974 với Việt Nam
Cộng hòa, kết thúc với việc Trung Quốc chiếm nửa phía Tây của quần đảo
Hoàng Sa, nhóm đảo Lưỡi Liềm. Lần thứ hai là một xung đột nhỏ hơn, nhưng
cũng không kém phần đẫm máu với nước Việt Nam thống nhất tại Đá Gạc Ma
hồi tháng 3/1988.
Điểm
đáng chú ý ở hai lần đối đầu này là chúng đều xảy ra khi trong khu vực
này xuất hiện một khoảng trống quyền lực lớn. Lần thứ nhất, Mỹ đang rút
quân khỏi khu vực này, và lần thứ hai là khi Liên Xô rút dần sự hiện
diện. Trong cả hai lần, Trung Quốc đều được hưởng lợi từ cái gật đầu
ngầm của Mỹ, nhân tố quyền lực nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mở
rộng. Vì thế, những cuộc xung đột quân sự ấy không gây ra nhiều hệ lụy
về mặt ngoại giao cho Trung Quốc.
Bước
đi thứ hai được phản ánh rất rõ trong cách Bắc Kinh chọn các địa điểm
chiếm đóng trong khu vực đang tranh chấp. Năm 1988, Trung Quốc dùng vũ
lực đánh chiếm 6 đảo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Nhưng 5 trong
số 6 đảo đó là những vị trí chiến lược nhất trong quần đảo.
Lựa
chọn đầu tiên của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là Đá Chữ Thập, một
trong những đảo tốt nhất trong quần đảo xét về vị trí và khả năng mở
rộng. Rạn san hô này án ngữ vị trí lý tưởng cửa ngõ phía Tây của quần
đảo Trường Sa và là một trong số ít các địa vật trong quần đảo này gần
các tuyến hải hành xuyên đại dương đi qua biển Đông. Đá Chữ Thập không
quá gần cũng không quá xa các nhóm đảo khác, lợi thế giúp giảm khả năng
bị tấn công đồng thời mở rộng không gian ảnh hưởng.
Ngoài
ra, Đá Chữ Thập còn chiếm một khu vực rộng 110 km vuông, một trong
những địa vật lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Bốn trong số năm địa
vật còn lại là đá Subi, đá Gaven, đá Gạc Ma và đá Châu Viên nằm ở rìa
bốn nhóm đảo khác nhau, từ đó có thể kiểm soát một vùng biển rộng lớn và
những tuyến hải hành chủ chốt ở quần đảo Trường Sa. Sau này Trung Quốc
còn chiếm thêm hai địa vật nữa cũng có giá trị chiến lược vô cùng to
lớn.
Đá
Vành Khăn mà Trung Quốc lén lút chiếm của Philippines hồi cuối năm
1994, đầu năm 1995 nằm ngay trung tâm cánh phía đông của quần đảo Trường
Sa và rất gần các tuyến hải hành trọng điểm dọc phía đông biển Đông.
Bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm năm 2012 với chiến lược ngoại
giao gậy nhỏ và “ngoại giao lật lọng” bao quát góc đông bắc biển Đông và
là chốt canh lý tưởng nhằm kiểm soát các tuyến hải hành chính qua khu
vực này.
Với
việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Scarbourough và các đảo nhân
tạo chiến lược khác trong quần đảo Trường Sa, Trung Quốc có lợi thế hơn
bất cứ nước nào khác trong việc kiểm soát cái mà học giả Robert Kaplan
gọi là “yết hầu của các tuyến đường biển toàn cầu”. Chẳng hạn, đảo Phú
Lâm (đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam),
Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và bãi cạn Scarborough tạo thành một chòm sao
bốn điểm với bán kính chỉ 250 hải lý từ đó có thể kiểm soát chặt chẽ
toàn bộ biển Đông.
Điều
đó có nghĩa là để trở thành “lãnh chúa” trên biển Đông, Trung Quốc chỉ
cần phát triển những tài sản ấy thành nền tảng vững chắc có thể cung cấp
hậu cần cho một mạng lưới tàu đánh cá, tàu hải cảnh, tàu ngầm và máy
bay nhằm thống trị bầu trời và vùng nước khu vực này, cũng như một số
vùng đất để thiết lập những khu kinh tế và an ninh rộng.
Đó
chính xác là những gì Bắc Kinh đang tiến hành. 60 năm trước đảo Phú Lâm
chỉ là một bãi cát không người ở, nay đã có gần 1.000 người, cả dân lẫn
binh lính. Cơ sở vật chất lưỡng dụng bao gồm một sân bay với một đường
băng 2.700m và một đường dẫn máy bay song song, có sức chứa hơn tám máy
bay thế hệ thứ tư như tiêm kích SU-30MKK, J-11B và máy bay ném bom JH-7,
một cảng nước sâu 1.000m có thể cho phép tàu tải trọng 5.000 tấn neo
đậu.
Từ
năm 2013, Trung Quốc bắt đầu ráo riết triển khai các dự án xây dựng
khổng lồ ở phía nam quần đảo Trường Sa hòng biến những đá mà nước này
chiếm được thành đảo. Theo một quan chức tình báo cấp cao của Đài Loan
tên Lý Tường Trụ, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thông qua kế hoạch
mở rộng đảo lấn biển để xây dựng các cơ sở quân sự trên năm đảo nhỏ
trong vùng biển này, trong đó có Đá Châu Viên, Đá Gạc Ma, Đá Gaven, Đá
Tư Nghĩa và Đá Chữ Thập.
Trong
số những dự án xây đảo ấy, gây nhiều tác động nhất phải kể đến dự án Đá
Chữ Thập. Từ một rạn san hô chìm, Đá Chữ Thập nay đã trở thành đảo lớn
nhất trong quần đảo Trường Sa. Sau khi lấn biển, với diện tích đất dự
kiến đạt 2km vuông, Đá Chữ Thập lớn gấp bốn lần đảo tự nhiên lớn nhất
trong quần đảo là Ba Bình hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng. Khu vực mở
rộng này cho phép Đá Chữ Thập xây dựng được một sân bay với đường băng
3.000m, một cảng nước sâu, các trạm radar, vài tên lửa tầm trung và tầm
xa, kho bãi và cơ sở vật chất cung cấp dịch vụ khác đủ khả năng hỗ trợ
hàng trăm tàu cá, tàu hải cảnh, tàu chiến và máy bay.
Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên trước việc Bắc Kinh tiếp tục ngang nhiên xây
đường băng sân bay và cảng nước sâu ở Subi, Đá Vành Khăn và bãi cạn
Scarborough và thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông.
Với
các đảo được mở rộng và xây mới ở các vị trí chiến lược, Trung Quốc có
nhiều khả năng hơn tất cả các cường quốc khác trong việc giành thế thống
trị trên không và trên biển ở biển Đông. Mặc dù Bắc Kinh vẫn còn cả một
con đường dài phía trước, nhưng trong vòng hai mươi năm nữa viễn cảnh
một Biển Đông la liệt các căn cứ của Trung Quốc trải dài từ quần đảo
Hoàng Sa ở tây bắc tới Đá Vành Khăn ở đông nam, từ bãi cạn Scarborough ở
đông bắc đến Đá Chữ Thập ở tây nam sẽ chẳng có gì là quá khó tưởng
tượng.
Liệu
quá trình lấn dần này có phải là không thể ngăn chặn? Mặc dù Tuyên bố
về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và các nước
ASEAN ký năm 2002 không tạo nhiều cơ sở để phong tỏa các điểm xây dựng
lại, nhưng các nước muốn duy trì nguyên trạng vẫn có thể gửi các quan
sát viên quốc tế tới để giám sát xây dựng và gây sức ép ngoại giao nhằm
thuyết phục Trung Quốc dừng hành động.
Một
cách nữa để thách thức chiến lược cờ vây của Trung Quốc là dùng chính
chiến thuật mà nước này sử dụng. Chẳng hạn, bước đầu tiên, Việt Nam có
thể cho phép Ấn Độ sử dụng căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh và cho Mỹ sử
dụng căn cứ không quân ở Đà Nẵng. Đây là hai địa điểm chiến lược nhất
của Việt Nam dọc bờ biển Đông. Nếu Trung Quốc không để ý tới thông điệp
này, Việt Nam có thể tăng cường động thái ngăn chặn bằng cách cho phép
quân đội Mỹ và Nhật Bản vào Cam Ranh và Đà Nẵng, từ đó hai nước có thể
tuần tra biển Đông. Trên hết, nếu Trung Quốc vẫn quyết tâm biến biển
Đông thành ao nhà của mình thì các nước Philippines, Mỹ, Nhật, Ấn Độ,
Việt Nam cần hình thành một liên minh mạnh mẽ nhằm đảo ngược lại trạng
thái mất cân bằng quyền lực ấy.
Đại
chiến lược của Trung Quốc ở biển Đông là một kế hoạch thâm sâu tận dụng
những điểm yếu của các chiến lược dựa trên các trận đánh lớn mà điển
hình là Chiến lược tác chiến không-hải mà Mỹ đưa ra nhằm vô hiệu hóa
năng lực chống tiếp cận – phong tỏa khu vực (A2AD) của Trung Quốc và
chiến lược kiểm soát tầm xa, lựa chọn thay thế chủ chốt của chiến lược
A2/AD. Nhưng chiến lược lấn dần này không phải là hoàn hảo. Nó có thể bị
ngăn chặn nếu Mỹ, Việt Nam và các cường quốc khu vực khác chơi cờ vây
điêu luyện như Trung Quốc.
Alexander Vuving
* Tác giả Alexander Vuving là phó giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu (Mỹ).
(Viettimes)
Không có nhận xét nào