Trước sự kiện Trung Quốc cho tàu khảo
sát Hải Dương Địa Chất 8 cùng với nhiều tàu hải cảnh cỡ lớn xâm phạm
bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, các tổ
chức xã hội dân sự Việt Nam đã ra Tuyên bố về Biển Đông. Cho đến sáng
hôm qua 29/07/2019 đã có 14 tổ chức và khoảng 750 người ký vào tuyên bố.
Sơ đồ hoạt động của tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 (màu đỏ) sách nhiễu tàu Việt Nam ở bãi Tư Chính, thời gian từ 16/06-10/07/2019. |
RFI
Việt ngữ đã trao đổi với phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng, trường đại học
Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc nhóm chủ trương bản tuyên bố trên,
về vấn đề này.
RFI:
Kính chào Phó giáo sư Hoàng Dũng. Như vậy là một lần nữa Trung Quốc lại
xâm phạm biển đảo Việt Nam, và một lần nữa các tổ chức xã hội dân sự
lại phải ra tuyên bố…
PGS Hoàng Dũng :
Sở dĩ chúng tôi đề nghị phải lên tiếng tố cáo trước Hội Đồng Bảo An,
trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế về việc Trung
Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam và thềm lục địa của Việt Nam, vì khi có
trộm cướp xâm nhập, thì điều đầu tiên là chủ nhà phải la làng. Nếu không
la làng, không chỉ rõ là ai xâm phạm nhà anh một cách bất hợp pháp,
chính anh không kêu lên thì ai có thể cứu anh được. Làm sao thuyết phục
người khác là anh có chính nghĩa.
Bên
cạnh đó còn đề nghị chuẩn bị kiện Trung Quốc. Không ít người cho rằng
Philippines tuy thắng kiện nhưng vẫn không làm gì được Trung Quốc, vậy
Việt Nam đi kiện liệu có lợi gì không, ông thấy ý kiến này như thế nào ?
Ý
kiến đó không đúng đâu, vì kiện chỉ là một khâu trong những việc cần
phải làm. Nếu coi kiện là khâu cuối cùng, đến đó là xong, suy nghĩ này
mới là sai lầm ; còn nếu coi kiện chỉ là bước khởi đầu thôi, thì rất
đúng. Đây là việc cần phải làm. Không thể để kẻ cướp vào nhà mà không
chịu la lên, không đưa ra trước công luận. Mà tên cướp này cũng đặc
biệt, người ta đã la làng đến như thế mà vẫn cố cãi !
Trước
mặt công luận Trung Quốc khó lòng biện bạch được, khi đã có phán quyết
của một tòa án quốc tế rằng việc làm của họ là sai trái. Trung Quốc càng
cố cãi, càng mất uy tín trước công luận.
Thưa
ông, không chỉ tố cáo trước quốc tế, có lẽ còn cần tuyên truyền rộng
rãi hơn. Bản tin của các hãng thông tấn thường gọi là vùng tranh chấp,
trong khi đây là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ không phải là
vùng tranh chấp…
Đúng,
đặt vấn đề như vậy rất chính xác. Nếu nói vùng tranh chấp tức là chúng
ta rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Họ muốn biến vùng không tranh chấp
thành vùng tranh chấp, và khi đã có tranh chấp thì phải có nhân nhượng.
Đương nhiên là chủ nhà nhân nhượng, thành ra thằng ăn trộm ít nhiều cũng
vơ được cái gì đó.
Trước
hành động của Trung Quốc thì Việt Nam lần này đã hành xử khác với tất
cả những lần trước. Một là đi đến động thái được coi là mạnh mẽ trong
ngoại giao : trao công hàm phản đối. Thứ hai là nêu đích danh Trung
Quốc. Chắc là những người có trách nhiệm ở Việt Nam cũng đã trải qua
giai đoạn phân vân.
Lúc
đầu thì lên tiếng nói đó là vùng biển của Việt Nam, lên án mọi sự xâm
phạm nhưng không hề nhắc đến Trung Quốc. Nhưng đến lần thứ hai sau đó
vài ngày thì thái độ rất khác, nói thẳng tên Trung Quốc, một điều hiếm
có. Và điểm đáng lưu ý là theo tin của chính đài RFI, Trung Quốc đề nghị
Việt Nam rút các giàn khoan ở bãi Tư Chính về, thì họ sẽ rút tàu Hải
Dương Địa Chất đi. Thế nhưng bằng hành động, Việt Nam đã dứt khoát bác
bỏ. Việt Nam đã công bố gia hạn thời gian làm việc của các giàn khoan ở
bãi Tư Chính. Đó là điều chưa từng có.
Một
mặt chính quyền không thể nào không lên tiếng, nếu không sẽ mất đi tính
chính danh với nhân dân. Anh là người quản lý đất nước, ăn lương từ
tiền thuế dân đóng góp, thế nhưng khi có kẻ cướp vào nhà anh im tiếng
thì rõ ràng sẽ mất uy tín.
Tuy
nhiên qua nhiều lần như vậy người dân phản ứng bằng cách đi biểu tình.
Mà biểu tình không chỉ ở một số nơi, mà lan rộng trên phạm vi cả nước.
Chính cái đó làm nhà nước sợ. Nhà nước một mặt cần nhân dân ủng hộ trong
động thái mạnh mẽ đối với Trung Quốc, nhưng mặt khác lại sợ sự ủng hộ
đó biến thành hành động biểu tình, dẫn đến nhiều chuyện không kiểm soát
được. Chính vì thế trong nội dung tuyên bố, chúng tôi cũng đặt ra những
vấn đề về dân chủ.
Nhưng
cho tới nay vẫn chưa có lời kêu gọi biểu tình nào, có lẽ người dân bất
mãn vì những lần xuống đường chống Trung Quốc trước đây đã bị chính
quyền trấn áp ?
Đúng,
chúng tôi thấy điều đó rất đáng suy nghĩ. Người dân yêu nước phải theo
cách nhà nước quy định. Đi biểu tình thực ra phù hợp với Hiến pháp,
nhưng không được nhà nước cho phép. Yêu nước không có giấy phép thành
yêu nước « lậu », và « lậu » thì người ta trừng trị. Trong việc trừng
trị tội yêu nước « lậu » ấy, nhà nước rất nặng tay. Chúng ta thấy không
hiếm những hình ảnh người đi biểu tình bị đánh.
Tôi
nhớ một anh bạn là kỹ sư Trần Bang trong một cuộc biểu tình chống Trung
Quốc đã bị đánh máu me đầy mặt trên đường phố Sài Gòn. Chính những cái
đó làm cho khi nhà nước lên tiếng mạnh mẽ như vậy, chỉ có báo chí lề
phải nói thôi, còn người dân im lìm không có một động thái nào cả. Điều
đó người nào có trách nhiệm quản lý đất nước phải suy nghĩ, và tôi cho
rằng họ phải duyệt xét lại toàn bộ chiến lược đối với người dân trong
mối liên quan đến chống Trung Quốc như thế nào.
Có lẽ cần phải ban hành luật biểu tình, một đạo luật cần thiết mà lâu nay vẫn chưa ra được ?
Trong
một chế độ như ở Việt Nam nếu có luật biểu tình đi nữa thì thực chất đó
là luật chống biểu tình, tức là họ làm thế nào hạn chế được biểu tình
nhiều nhất. Chính vì họ chưa tìm được cách làm sao cho hiệu quả nên
người ta không công bố được. Chứ nếu luật biểu tình thực chất là tạo
điều kiện cho người dân biểu tình, thì tôi cho là đơn giản hơn rất
nhiều.
Thưa ông vì sao lại đòi hỏi tăng cường hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ ?
Ngày
nay một nước mạnh như Mỹ còn phải đặt vấn đề hợp tác, huống gì một nước
nghèo và yếu như Việt Nam. Ai cũng thấy rằng một bên là Việt Nam, một
bên là Trung Quốc, thì sức mạnh hết sức chênh lệch. Cho nên việc hợp tác
với các quốc gia khác là điều dễ hiểu và tất yếu.
Trên
thực tế nếu liên minh được với Hoa Kỳ sẽ là sức mạnh răn đe tốt nhất
đối với Trung Quốc. Bởi vì Hoa Kỳ có quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông và
có đủ sức mạnh để Trung Quốc phải kiêng dè. Các nước khác đương nhiên
cũng cần phải hợp tác, nhưng mạnh mẽ nhất phải là với Mỹ. Vì thế trong
tuyên bố ở điều số 3, quốc gia đầu tiên chúng tôi nhắc đến là Mỹ. Còn
các nước khác dùng cụm từ chung hơn, là các nước tôn trọng luật pháp
quốc tế.
Có
nhiều ý kiến cho rằng có lẽ chính quyền Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng hợp
tác với Mỹ vì sợ phản ứng của Trung Quốc ở sát bên cạnh ?
Tôi
không thấy như vậy. Tôi thấy Việt Nam bắt đầu có xu hướng xích gần lại
với Mỹ, ngay cả trong lãnh vực quốc phòng. Mới gần đây thôi Việt Nam
tiếp nhận một số tàu cho cảnh sát biển, việc này có ý nghĩa biểu tượng
lớn chứ không phải nhỏ đâu. Tuy mình cho rằng việc hợp tác như vậy là
quá chậm so với yêu cầu, nhưng không thể không khẳng định xu hướng hợp
tác ngày càng mạnh hơn so với trước.
Hiện
nay thông tin về xung đột ở Biển Đông trên báo chí quốc tế không nhiều,
hầu hết tập trung vào Trung Đông. Phải chăng Trung Quốc có tính toán
đến khi xâm phạm vùng biển Việt Nam vào lúc này?
Việc
chọn lựa thời cơ thì Trung Quốc là nước trong quá khứ được coi là bậc
thầy. Chẳng hạn xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, họ chọn
thời điểm đối với Việt Nam rất bất lợi. Cho nên lần này việc họ chọn
lúc các cường quốc trên thế giới phải lưu tâm đến nhiều chuyện khác để
phân tán sự chú ý tới Biển Đông, là chuyện rất dễ hiểu.
Tôi
hoàn toàn tán thành suy nghĩ Trung Quốc khi đưa tàu đến bãi Tư Chính là
họ đã chọn thời điểm. Có điều thời điểm đó là một sự lăng nhục Việt
Nam, vì ta nhớ rằng vụ bãi Tư Chính nổ ra đúng lúc chủ tịch Quốc Hội
Việt Nam đang thăm Trung Quốc. Một nước luôn luôn nói rằng « 4 tốt 16
chữ vàng » với Việt Nam, nhưng lại lợi dụng đúng lúc người ta đến thăm
cấp cao, lại đi xâm phạm đất đai của vị thượng khách ấy. Tôi cho rằng
điều đó là hết sức trơ tráo !
Việt
Nam cho tới bây giờ đã làm tất cả những gì có thể làm được, nhưng đến
hôm nay tàu Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động ở bãi Tư Chính. Trong thế
giới đảo điên ngày nay, đành để cho luật của kẻ mạnh ngự trị ?
Tất
nhiên Trung Quốc là kẻ mạnh, nên khi Việt Nam hô hoán trước công luận
thế giới, Trung Quốc vẫn ngang nhiên bỏ qua. Nhưng vấn đề là Việt Nam
rút ra kinh nghiệm gì để đối phó với Trung Quốc. Tôi cho rằng đây là
điều may cho Việt Nam, khi Trung Quốc quá ngoan cố như vậy ! Trong khi
Việt Nam đã dùng tất cả những biện pháp hòa bình mà vẫn không đạt được
mục tiêu, thì đó là một sức ép đẩy lãnh đạo Việt Nam phải dùng những
biện pháp như hợp tác mạnh mẽ hơn nữa với các nước khác, nhất là Mỹ. Kẻ
mạnh chỉ sợ khi nào đối thủ của họ tỏ ra mạnh hơn.
Và một điều không thể thiếu khi muốn chống ngoại xâm là lòng dân ?
Đúng,
ngay đề nghị đầu tiên của chúng tôi là như thế. Là phải tăng cường nội
lực của đất nước làm chỗ dựa cho quốc phòng, thực hiện kế sách giữ nước
của Đức thánh Trần Hưng Đạo khoan sức dân…Như vậy việc đầu tiên chúng
tôi đặt ra là nội lực hợp tác nước này nước kia nhất định phải làm nhưng
không chỉ trông cậy vào đó quan trọng là thực sự anh có mạnh không chỉ
có thể làm được nếu có chính sách nội trị tốt cho nên việc nhà nước đứng
ra chống chọi với Trung Quốc sẽ cảm thấy tự tin vì sau lưng là cả một
đất nước cả một dân tộc
RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của chúng tôi hôm nay.
Thụy My
(RFI)
Không có nhận xét nào