Lần đầu tiên, kể từ năm 2011, một bộ
trưởng Quốc Phòng Trung Quốc đích thân đến dự Diễn đàn An ninh
Shangri-La tại Singapore, diễn ra từ ngày 31/05 đến 02/06/2019. Sự kiện
này cho thấy Bắc Kinh đang “điều chỉnh lại” chiến lược đối ngoại quân sự
và an ninh vào đúng thời điểm Mỹ tiếp tục điều chỉnh chiến lược tại Ấn
Độ-Thái Bình Dương.
Ngay
tại Diễn đàn Shangri-La, quyền bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Patrick Shanahan
chỉ đích danh Trung Quốc “gặm nhấm chủ quyền” của các nước láng giềng,
quân sự hóa nhiều đảo đá mà nước này kiểm soát ở vùng Biển Đông. Hoa Kỳ
chỉ trích chủ tịch Tập Cận Bình đã nuốt lời hứa năm 2015 với tổng thống
Mỹ lúc đó là Barack Obama.
Trước
Diễn đàn Shangri-La, Hoa Kỳ công bố chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương
mới, với Trung Quốc trong tầm ngắm. Trước đó vài ngày, một ủy ban hỗn
hợp thượng nghị sĩ Dân Chủ và Cộng Hòa đã trình dự thảo luật trừng phạt
Trung Quốc do các hành động ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Trong khi đó,
chính quyền tổng thống Donald Trump tiếp tục dồn dập gây sức ép đối với
Bắc Kinh trong cuộc chiến thương mại và công nghệ.
Trên
quy mô quốc tế, Mỹ đã vận động được nhiều đối tác, đồng minh, có lợi
ích trong khu vực, gia nhập chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải và bảo đảm
an ninh ở Biển Đông, biển Hoa Đông thuộc vùng Thái Bình Dương.
Phải
chăng Mỹ đang dồn lực trên mọi mặt để đối phó và cô lập Trung Quốc ?
RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với chuyên gia Mathieu Duchâtel, giám đốc
Chương trình châu Á, Viện Montaigne, Paris.
RFI : Đầu
tháng 06/2019, Hoa Kỳ thông báo chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương mới,
dường như trực tiếp nhắm vào Trung Quốc. Đâu là những điểm chính của
chiến lược này ?
Mathieu Duchâtel :
Trước hết, đó là cách định dạng lại điều mà mọi người hiện giờ đều
biết, đó là cụm từ “Ấn Độ-Thái Bình Dương” và được chính quyền tổng
thống Donald Trump sử dụng theo đúng nghĩa. Điều này đánh dấu sự khác
biệt với chính quyền tiền nhiệm Obama. Theo quan điểm của tôi, có rất ít
điểm thực sự mới trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương lần này, nhưng
cũng có một số điểm nổi bật.
Trước
hết, đó là tầm quan trọng của việc ủng hộ tự do lưu thông hàng hải ở
Biển Đông. Tiếp theo, đó là vai trò quan trọng của các đối tác lớn của
Mỹ ở trong vùng, trong đó có vai trò của Ấn Độ trong tầm nhìn chiến lược
xoay trục sang châu Á so với những chiến lược trước đây.
Điểm
thứ ba, đó là một chiến lược, không chỉ liên quan đến vấn đề sức mạnh
hải quân và an ninh hàng hải theo đúng nghĩa quân sự, mà còn là lời đáp
trả của Mỹ trước những sáng kiến xây dựng cơ sở hạ tầng vận tải của
Trung Quốc ở những nước láng giềng dọc vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương thông
qua con đường tơ lụa trên biển. Tại đây, Hoa Kỳ, cùng với các nước đối
tác, đang tìm cách cưỡng lại sự cạnh tranh với Trung Quốc về mặt xây
dựng cơ sở hạ tầng và ảnh hưởng chính trị.
RFI : Vài
ngày trước khi thông báo chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương mới, một ủy
ban hỗn hợp thượng nghị sĩ Mỹ, Dân Chủ và Cộng Hòa, đã trình bày một dự
thảo luật trừng phạt Trung Quốc vì những hành động ở Biển Đông và biển
Hoa Đông. Hai sự kiện này có mối quan hệ như thế nào ?
M. Duchâtel :
Phía Quốc Hội Mỹ khởi xướng nhiều dự án liên quan đến Trung Quốc và vấn
đề ở Tân Cương. Mỹ hiện có một chính sách rất cứng rắn đối với Trung
Quốc mà người ta vẫn nhắc đến sự “cạnh tranh chiến lược”, theo cụm từ
mới đang được dùng. Có rất nhiều yếu tố cho chính sách này, trong đó yếu
tố dễ nhận thấy nhất, dĩ nhiên là thuế quan, sau đó là những gì liên
quan đến cạnh tranh công nghệ.
Tiến
tới trừng phạt Trung Quốc về những hành động ở Biển Đông, với tôi, điều
này có vẻ khó. Nhưng trái lại, chúng ta thấy rõ là dưới chính quyền
tổng thống Trump, điều mà được tổ chức chặt chẽ hơn so với thời Obama,
đó chính là những chuyến tuần tra vì tự do hàng hải, hiện trở thành hoạt
động thường kỳ trong chiến lược đáp trả của Washington đối với việc Bắc
Kinh cho xây dựng và bồi đắp đảo nhân tạo, đặc biệt là ở quần đảo
Trường Sa. Cần phải nhắc lại là những chuyến tuần tra này không chỉ giới
hạn ở quần đảo Trường Sa, mà cũng thường xuyên được tiến hành ở quần
đảo Hoàng Sa, quanh đảo Phú Lâm (Woody).
Phải
nói là Hoa Kỳ hiện diện mạnh mẽ ở trong vùng. Tôi nghĩ rằng còn có một
điểm mới phù hợp với lợi ích của Washington, đó là một số đối tác của Mỹ
đã điều động đến hiện diện ở Biển Đông, như một số nước châu Âu, Úc hay
Nhật Bản.
Theo
tôi, trừng phạt Bắc Kinh do các hoạt động bồi đắp, xây đảo nhân tạo
trong vùng biển xung quanh nước này, không phải là điểm nổi bật, quan
trọng nhất. Điều thực sự quan trọng, trước hết đó là sự hiện diện hải
quân, tiếp theo là sự huy động để hình thành được một kiểu liên minh
quốc tế quanh sáng kiến cần có một lực lượng hải quân thường trực trong
vùng biển này để ngăn cản xảy ra thêm một vụ “thay đổi nguyên trạng”.
Chúng
ta không thể buộc Trung Quốc lùi bước ở quần đảo Trường Sa hoặc Hoàng
Sa vì đó là chủ đích “chuyện đã rồi” từ phía Trung Quốc. Ngược lại, việc
hải quân hiện diện thường xuyên nhắm đến hai mục đích : Thứ nhất, bảo
vệ quyền tự do lưu thông hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế ; thứ
hai, điều mà tôi cho là còn quan trọng hơn, đó là tạo điều kiện để không
xảy ra thêm một kiểu “việc đã rồi” như trên.
RFI : Song
song với hành động quân sự, Washington không ngừng gia tăng sức ép tối
đa đối với Bắc Kinh trong cuộc chiến thương mại. Khi tung ra cả hai kiểu
đòn tấn công như vậy, Mỹ nhắm đến mục đích gì ?
M. Duchâtel :
Có một câu hỏi thực sự về tham vọng chiến lược lâu dài của chính quyền
Donald Trump. Theo tôi, có thể diễn giải theo hai khả năng nhưng không
biết đâu là chiến lược thực sự.
Khả
năng thứ nhất : Buộc Trung Quốc chấp nhận một thỏa thuận lớn. Thỏa
thuận này làm thay đổi bản chất mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa Mỹ
và Trung Quốc, với những điều khoản đáng tin cậy, đặc biệt liên quan
đến vấn đề đánh cắp sở hữu trí tuệ. Đây liệu có phải là điều mà chính
quyền Trump tìm kiếm không ? Và Hoa Vi là một bài trắc nghiệm. Tôi cho
rằng khả năng này ít xảy ra.
Khả
năng thứ hai : Đó chỉ đơn thuần là logic cạnh tranh chiến lược với mục
tiêu, theo quan niệm của Mỹ, là thay đổi mạnh nhất cán cân lực lượng
giữa Mỹ và Trung Quốc với một cuộc chiến đang diễn ra liên quan đến nền
kinh tế kỹ thuật số tương lai và cuộc chạy đua về công nghệ. Vì thế, các
doanh nghiệp công nghệ của Trung Quốc bị nhắm đến. Và nếu trường hợp
này là đúng, chúng ta sẽ kiểm chứng được điều này qua số phận được dành
cho tập đoàn Hoa Vi.
Hẳn
mọi người còn nhớ rằng công ty ZTE của Trung Quốc cũng từng là nạn nhân
của các biện pháp trừng phạt của Mỹ khiến ZTE bị điêu đứng trước khi
được chính quyền Trump rút khỏi danh sách cấm các doanh nghiệp Mỹ làm ăn
với các doanh nghiệp nước ngoài.
Liệu
Hoa Vi có thể được loại khỏi danh sách này trong vòng vài tháng nữa
không ? Với tôi, đó là kịch bản ít có khả năng xảy ra nhất. Nhưng chính
quyền Trump vẫn có thói quen gây bất ngờ. Có lẽ Hoa Vi phải tiếp tục nằm
trên danh sách này vì đây sẽ là một dấu hiệu cho thấy mục tiêu thực sự
của chính quyền Mỹ là không cần đạt được thỏa thuận, mà thực ra là gây
thiệt hại nhiều nhất cho các doanh nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc
và giành chiến thắng trong cuộc đua này. Dù sao, phải nói rằng Hoa Kỳ có
lợi thế hơn Trung Quốc.
RFI : Vậy Trung Quốc có thể phản công như thế nào ?
M. Duchâtel :
Trung Quốc cũng có những giải pháp gây hại cho đối thủ. Nhưng tôi cho
rằng nếu nói đến “leo thang” thì Hoa Kỳ vẫn có nhiều lựa chọn hơn để gây
phương hại bởi vì vẫn còn hơn 100 tỉ đô la hàng hóa Trung Quốc vẫn chưa
được liệt thêm vào danh sách thuế ở mức 20%.
Vấn
đề hiện nay xoay quanh các lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền
thông. Giả sử nếu Trung Quốc muốn tiến xa hơn bằng cách sử dụng nguồn dự
trữ ngoại hối, đô la của nước này hoặc thao túng đồng nhân dân tệ hoặc
thậm chí sử dụng những biện pháp phi thương mại, phi kinh tế, đơn cử một
số trường hợp được nêu trong các báo cáo, theo đó các doanh nghiệp Mỹ
tại Trung Quốc trở thành nạn nhân của các đợt tăng cường thanh tra thuế,
khó tiếp cận với các nhà cung cấp… Tóm lại, Trung Quốc có rất nhiều thủ
thuật khiến các doanh nghiệp Mỹ phải suy nghĩ. Nhưng để nói đến “leo
thang” và ai làm chủ tình hình leo thang, tôi nghĩ rằng hiện vẫn là Mỹ.
RFI : Trước
sự cạnh tranh Mỹ-Trung, các quốc gia Đông Nam Á phải đối mặt với những
thách thức gì, vì có nhiều ý kiến cho rằng những nước này có nguy cơ
phải chọn một trong hai?
M. Duchâtel :
Đúng thế, rất khó để duy trì được một sự trung lập thực sự. Ở đây nảy
sinh một câu hỏi theo nghĩa mở cửa và cơ hội. Người ta vẫn nhắc đến
chiến lược của tổng thống Trump là nhằm thay đổi dây chuyền cung ứng
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông. Cần phải nhớ rằng
Hoa Kỳ có một đòn bẩy quan trọng, đó là thị trường nội địa khổng lồ của
nước này. Nếu các doanh nghiệp rời Trung Quốc, họ có thể chuyển sang nơi
khác, như vùng Đông Nam Á và Ấn Độ, vẫn thường được nhắc đến. Câu hỏi
thực sự được đặt ra hiện nay : Liệu tình hình có đi xa hơn, theo kiểu
logic đối đầu không ? Ai là người sẽ được hưởng lợi từ cuộc đối đầu này
và từ thị trường nội địa Mỹ to lớn ? Tôi cho rằng các nước Đông Nam Á có
cơ hội.
Tiếp
theo, những nước này duy trì cân bằng thương mại với Mỹ và với Trung
Quốc như thế nào ? Theo tôi, họ sẽ làm được. Vấn đề được đặt ra hiện nay
thiên về chính trị, ví dụ về quốc phòng và an ninh, hoặc về xây dựng cơ
sở hạ tầng 5G, như trường hợp ở châu Âu hiện nay. Liệu có thể vừa chọn
sử dụng thiết bị của Hoa Vi, vừa duy trì được mối quan hệ đồng minh. Tóm
lại, có rất nhiều câu hỏi như vậy được nêu lên. Nhưng tôi nghĩ rằng,
nếu nhìn vào tầm quan trọng của nền kinh tế Trung Quốc đối với các nước
Đông Nam Á, họ sẽ tìm cách để không hoàn toàn thiên về bên nào.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Mathieu Duchâtel, giám đốc Chương trình châu Á, Viện Montaigne, Paris.
(RFI)
Không có nhận xét nào