Khi nhắc đến quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Cộng, giới lãnh đạo CSVN thường nhấn mạnh đến 16 chữ vàng “Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
do Giang Trạch Dân thay mặt lãnh đạo Trung Cộng tặng Lê Khả Phiêu, đại
diện giới lãnh đạo CSVN đầu năm 1999 nhưng không hề nhắc đến 12 lời
nguyền rủa “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” do Đặng
Tiểu Bình, thay mặt Trung Cộng tặng CSVN vào cuối năm 1978 trong chuyến
đi thăm các quốc gia Đông Nam Á của y.
Gọi
là lời nguyền rủa vì họ Đặng không viết ra để gởi Bộ Chính trị đảng
CSVN qua đường ngoại giao mà do chính giọng Tứ Xuyên của y phát biểu
trên đài truyền hình cho nhân dân Đông Nam Á và thế giới cùng nghe.
* Lý do nguyền rủa
Phải
công tâm mà nói, mặc dù dùng chữ “Việt Nam” họ Đặng nhắm vào đảng CSVN
chứ không hàm ý dân tộc Việt Nam hay nhân dân Việt Nam. Và cũng công tâm
mà nói, sau khi tìm hiểu kỹ mối quan hệ giữa hai đảng CS, việc Đặng
Tiểu Bình rủa đảng CSVN là “côn đồ” không phải là quá đáng.
Trung
Cộng đổ quá nhiều xương máu, góp quá lớn công sức và của cải cho chiến
thắng của đảng CSVN. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách
khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các
đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:
“Mặc
dù đang mạnh dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng
của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964
đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can
thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Cộng bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao
gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe
lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Cộng điều khiển các
giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa
đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Cộng
giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào
Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23
sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm
năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Nội
dung này cũng phù hợp với con số do hãng tin Reuter loan đi ngày 16
tháng Năm, 1989 dựa theo tin của China News Service “Hãng tin bán chính
thức của Trung Quốc trong một thông báo được theo dõi tại Hong Kong cho
biết Trung Cộng đã gởi 320 ngàn quân sang Việt Nam trong thập niên
1960”. Về con số thương vong, bản tin còn cho biết hơn 4 ngàn lính Trung
Cộng đã chết trong cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý dưới
các chế độ CS, con số thương vong là một thống kê có tính cách chính
trị, con số thật sự không được tiết lộ. Giống như cách CSVN tổng kết
thương vong trong chiến tranh Việt Nam, khi nghĩ đến chuyện Mỹ bồi
thường chiến tranh, họ đưa ra con số quá cao nhưng khi khoe khoang chiến
thắng họ lại hạ con số tổn thất xuống thấp.
Trung
Cộng, trong lúc dành dụm từng ký gạo gởi giúp Việt Nam, phải trải qua
nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người do Mao Trạch Đông gây
ra trong thời kỳ Bước tiến nhảy vọt và Công xã nhân dân từ năm 1958 đến
năm 1962.
Không
có một con số chính xác số người chết đói tại Trung Cộng nhưng hầu hết
các nhà nghiên cứu đã đồng ý con số lên đến vài chục triệu người. Tác
giả Peng Xizhe dự đoán thấp nhất với 23 triệu người và Frank Dikötter,
giáo sư môn Lịch sử Trung Quốc Hiện đại, dự đoán ít nhất có 45 triệu
người chết, trong đó khoảng 2 đến 3 triệu chết vì tra tấn. Phần lớn các
nhà nghiên cứu còn lại cho rằng khoảng 30 triệu người đã chết đói. Viết
trên New York Times, giáo sư Frank Dikötter trích dẫn lá thư viết tay
của viên Giám đốc Sở Anh Ninh Công Cộng tỉnh Tứ Xuyên báo cáo lên cấp
trên tỉnh của y có 10.6 triệu người chết đói. Ở Cam Túc có 50 trường hợp
ăn thịt người. Nhà báo Daniel Southerland viết trên Washington Post,
tại công xã Fengyang có 63 trường hợp người ăn người và tại công xã
Damiao hai vợ chồng Chen Zhangying và Zhao Xizhen luộc chín đứa con 8
tuổi của mình để ăn. Riêng tại công xã Wudian có cả trường hợp bán thịt
của chính mình như bán thịt heo. Nói chung, những năm cuối thập niên
1950 cho đến đầu 1960 là những năm dân số Trung Cộng giảm thấp nhất
nhưng không phải vì hạn chế sinh đẻ nhưng chết quá nhiều.
Tuy
nhiên, cũng ngay trong thời gian dân Trung Cộng có nơi phải ăn thịt
người mà sống, giới lãnh đạo Trung Cộng đã vét kho gởi sang nuôi CSVN.
Dưới
đây là nội dung bản tổng kết của báo Nhân Dân phát hành tại Hà Nội, số
2021 ra ngày 28 tháng Chín 1959 nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được dịch sang tiếng Anh và lưu trữ trong
Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Libray of Congress):
“Trong
năm năm qua, Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ nhiệt tình. Chỉ
riêng tiền bạc, trong đó Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, đã lên đến
900 triệu Yuan, đây là số lượng bằng thu nhập nội địa của ngân sách
Việt Nam trong ba năm 1955, 1956, 1957 cộng lại… Trong công nghiệp,
Trung Quốc đã giúp chúng ta trong lãnh vực khai thác hầm mỏ, sản xuất
điện khí, cải thiện sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, công
nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất phân bón
và hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dầu khí, công
nghiệp sắt thép… Mặc dù trong mười năm xây dựng, Trung Quốc đạt được
nhiều thành quả vật chất, vẫn còn là một nước nghèo. Dù sao, Trung Quốc
đã hết lòng viện trợ chúng ta. Do đó, chúng ta càng biết ơn sự trợ giúp
đó”.
Mối
tình Việt Trung đã vượt qua khỏi giới hạn quan hệ hai nước bình thường,
như Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, viết
trong bài Hồ Chí Minh với Trung Quốc: “Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Bác Hồ đã đi tới nhiều nơi trên thế giới, nhưng có lẽ
Trung Quốc là một trong mấy nước Bác lui tới nhiều lần nhất, sinh sống ở
đó trong thời gian dài nhất, có cống hiến rất lớn cho phong trào cách
mạng cũng như để lại ở đó nhiều tình cảm nhất”.
Nói chung, từ đời sống đến tình cảm, mặt nào cũng “nhất”.
Đảng
CSVN đã sống bằng cơm gạo Trung Cộng suốt ba năm ngân sách các năm
1955, 1956, 1957 trong khi cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của
Đặng Tiểu Bình chết trên 10 triệu người, chết không kịp chôn, chết đầy
đường phố.
Từ
thời gian thành lập năm 1930 đến cuối thập niên 1960, dây chùm gởi CSVN
sống bám vào thân cây CSTQ từ vật chất đến tư tưởng. Câu nói quen thuộc
trong bang giao quốc tế “quốc gia không có bạn hay thù mãi mãi mà chỉ
có quyền lợi” không áp dụng được với Việt Nam và Trung Cộng. Quan hệ
Việt Trung không giống như quan hệ ngoại giao giữa bất cứ hai nước nào
trong lịch sử cận đại. Những hy sinh của đảng CSTQ cho đảng CSVN quá lớn
để quên và quá cao để đáp đền đầy đủ. Không có sự trợ giúp của đảng
CSTQ, không biết số phận đảng CSVN giờ này trôi giạt về đâu.
Phân tích để thấy, Đặng Tiểu Bình nguyền rủa đảng CSVN “côn đồ” không phải là quá nặng lời.
“Mối tình hữu nghị Việt – Hoa / Vừa là đồng chí vừa là anh em”
Trung
Cộng quan tâm và lo lắng cho đảng CSVN chỉ vì, ngoài lý do an ninh phên
giậu phía nam, họ còn luôn nghĩ đảng CSVN là một phần của đảng CSTQ.
Không
chỉ phía Trung Cộng mà Việt Nam một thời rất lâu cũng thừa nhận điều
đó. Tinh thần nô lệ Trung Cộng ăn sâu vào nhận thức của nhiều thế hệ
lãnh đạo CSVN như Dương Danh Dy kể lại “Bác luôn coi sự nghiệp và lợi
ích của cách mạng Trung Quốc như của chính mình”. Công hàm Phạm Văn Đồng
bây giờ là chuyện lớn nhưng trong thời buổi thở nhờ bình dưỡng khí của
Trung Cộng như báo Nhân Dân viết, công hàm chỉ là chuyện nhỏ. Nhiều
người kết án 11 ủy viên trong Bộ Chính trị CSVN thuộc đại hội 2 năm 1951
ngu xuẩn khi viết công hàm 1958 nhưng đó là ngu xuẩn theo nhận thức
ngày nay. Trong mắt lãnh đạo Đảng thời kỳ 1958, công hàm Phạm Văn Đồng
lại là một hành động hết sức sáng suốt, thông minh, biểu hiện tính giai
cấp, phù hợp nhu cầu phát triển đất nước và xu hướng cách mạng vô sản
toàn thế giới. Mấy tổ yến trên hoang đảo xa xôi cách Đà Nẵng 170 hải lý
làm sao sánh được với 900 triệu Yuan, làm sao so được sự hy sinh vô bờ
bến của đảng CSTQ dành cho đảng CSVN, làm sao so được với cả một lịch sử
gần gũi như anh với em, vợ với chồng, nước với sữa, môi với răng giữa
hai đảng. Toàn bộ nội dung công hàm còn được đăng trên báo Nhân dân ngày
22 tháng 9 năm 1958 như một cách nhấn mạnh đến tầm nhìn xa thấy rộng
của Đảng.
Tình
càng nặng, nhớ càng sâu mà khi thù cũng sẽ rất lâu. Cuộc tình giữa hai
đảng CS Trung Quốc và Việt Nam diễn theo một chu kỳ có đủ bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông. Từ những ngày còn trẻ hẹn hò bên bờ sông Mác, bên suối Lê
Nin, đã thề nguyền sống chết có nhau, hơn một lần sớt chia nhau từng
hạt gạo, viết tặng nhau những dòng thơ vô cùng thắm thiết rồi khi chia
tay trong mùa đông lạnh rét họ trở thành thù địch chẳng những chém giết
không một chút xót thương mà còn mượn tay hàng xóm để tàn sát gia đình,
chặt đầu con cái và thả trôi sông người thân của kẻ từng thề vinh nhục
có nhau.
Ngày
17 tháng Hai năm 1979, Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh giới
hạn xâm lăng lãnh thổ Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Với số
quân vượt trội nhiều lần và có yếu tố bất ngờ nhưng Trung Cộng đã chịu
đựng tổn thất nặng nề ngay trong những ngày đầu của cuộc chiến. Sau tuần
lễ đầu chịu đựng nhiều thiệt hại nhưng danh sách các vùng chiếm được
chỉ là những làng xã dọc biên giới, Đặng Tiểu Bình bằng mọi giá phải
chiếm cho được thành phố Lạng Sơn, thủ phủ tỉnh Lạng Sơn để lấy tiếng
trước khi rút lui. Chiều ngày 4 tháng Ba, sau nhiều trận giao tranh đẫm
máu quân Trung Cộng tiến vào Lạng Sơn. Khi rút khỏi những nơi này, quân
Trung Cộng san bằng tất cả nhà cửa để trả thù cho số thương vong quá
lớn.
Ký
giả Nayan Chanda thăm vùng giao tranh vài ngày sau cuộc chiến đã ghi
nhận không chỉ các công sở nhà nước mà cả trường học, bịnh viện đều bị
quân Trung Cộng giựt sập. Theo nhận xét của Đại Tá Russell D. Howard
thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ, Trung Cộng thiệt
hại chỉ trong vài ngày bằng hơn một nửa số tổn thất của Mỹ trong 10 năm
tham dự chiến tranh Việt Nam. Thật vậy, với vũ khí lạc hậu và đạo quân
đông đảo nhưng không có kinh nghiệm chiến trường, Đặng Tiểu Bình đã
“học” nhiều hơn “dạy”.
* Tái áp dụng chính sách cô lập Việt Nam
Mới
đây Trung Cộng lần nữa mượn tay hàng xóm Campuchia để bao vây và cô lập
Việt Nam như họ đã từng làm sau năm 1975. Cùng một mục tiêu nhưng khác
về phương tiện. Vào năm 1978, phương tiện là vũ khí nhưng lần này tài
chánh sẽ là phương tiện chính. Năm 1978, các quốc gia hội viên ASEAN ủng
hộ quan điểm Đặng Tiểu Bình vì họ không muốn thấy một “Cu Ba phương
đông” trong vùng Đông Nam Á. Năm 2012, ngoại trừ Philippines, các quốc
gia như Thái, Miến, Brunei, Nam Dương, Mã Lai, Singapore đã nghiêng về
phía Trung Cộng qua thái độ không muốn can thiệp vào xung đột biển Đông.
Lý
do rất dễ hiểu. Nhìn vào cán cân ngoại thương cũng như vốn đầu tư của
Trung Cộng vào các nước ASEAN sẽ biết ngay họ làm như thế phát xuất từ
lý do kinh tế và nỗi lo sợ Trung Cộng trừng phạt. Kể từ khi Thỏa hiệp
Mậu dịch Công bằng Trung Quốc-ASEAN (The China-ASEAN Fair Trade
Agreement) được ký kết năm 2010, các công ty Trung Cộng đổ tiền như nước
vào ASEAN và hiện nay là thành viên thương mại lớn nhất trong vùng.
Tổng giá trị mậu dịch giữa Trung Cộng và các nước ASEAN được dự tính sẽ
tăng gấp đôi từ 231 tỉ Dollar năm 2010 lên đến 500 tỉ Dollar vào năm
2015 bao gồm hầu hết các ngành công nghiệp, nhẹ như tơ sợi đến nặng như
sắt thép. Làm ăn với ASEAN, Trung Cộng rất yên tâm vì biết ASEAN không
phải là một liên minh quân sự và trong nội bộ ASEAN chẳng nước nào tin
tưởng nước nào.
Tham
vọng khống chế ASEAN không phải là mới mà đã bắt đầu từ chuyến viếng
thăm của Đặng Tiểu Bình đến các nước ASEAN từ năm 1978. Việc họ Đặng
chọn Thái Lan như chặng đầu tiên chỉ vì vừa muốn ve vãn đồng minh thân
cận Mỹ ở Đông Nam Á và cũng muốn dùng đất Thái để tiếp tục yểm trợ vũ
khí cho Pol Pot. Tại mỗi chặng trên chuyến viếng thăm, Đặng Tiểu Bình
nhấn mạnh Việt Nam, một “Cu Ba phương đông” như một đe dọa cho hòa bình
và ổn định trong vùng Đông Nam Á. Trong số các lãnh tụ ASEAN thời đó chỉ
có Lý Quang Diệu là người hiểu được tâm địa của họ Đặng. Đặng Tiểu Bình
ngạc nhiên khi nghe Lý Quang Diệu phát biểu rằng các quốc gia Đông Nam Á
lo ngại Trung Cộng nhiều hơn là lo ngại Việt Nam. Dù bất đồng một số
điểm Đặng và Lý rất thán phục nhau về khả năng lãnh đạo, tính thực tế và
biết nhìn xa về tương lai đất nước họ và thế giới.
Điều
kiện kinh tế chính trị năm 2012 khác với điều kiện kinh tế chính trị
năm 1979 nhưng đều bất lợi cho CSVN và cũng do bàn tay lông lá của Trung
Cộng vận dụng từ bên trong. Chủ trương của Trung Cộng là khống chế Việt
Nam, giữ Việt Nam trong vòng khốn đốn, lạc hậu, nghèo nàn, ăn không
ngon và ngủ không yên như thời Trung Cộng xúi dục Khmer Đỏ quậy phá vùng
biên giới Tây-Nam Việt Nam. Lãnh đạo Trung Cộng vừa phải hành xử như
một trong những cường quốc kinh tế nhưng cùng lúc không che giấu tham
vọng thống trị biển Đông bằng mọi phương tiện. Và nếu phải chọn một đối
tượng để dằn mặt các nước nhỏ trong vùng, không có đối tượng nào khác
hơn là Việt Nam.
Sau
một thời gian tương đối yên tĩnh, biết đâu trong những ngày tới, tiếng
súng lại nổ vang ở Phú Quốc, Tây Ninh, An Giang và nạn “cáp duồn” lại
xảy ra cho bà con đang làm ăn trên đất Campuchia. Khác với tình trạng
năm 1977-1978, lần này CSVN nhiều lắm chỉ có thể phản ứng tự vệ dọc biên
giới Việt Miên nhưng không thể, về cả điều kiện chính trị thế giới lẫn
khả năng quân sự, đánh sập Campuchia trong một hai tuần như trước đây.
Trong
cuộc chiến Việt Miên năm 1979, phía Việt Nam chiếm nhiều ưu thế về cả
phương tiện chiến tranh lẫn kinh nghiệm chiến trường. Hai ưu thế đó
không còn nữa. Suốt 37 năm, giới lãnh đạo đảng CSVN chỉ lo củng cố vai
trò cai trị, tham nhũng, tập trung lực lượng an ninh vào việc trấn áp
những người yêu nước mà bỏ qua một thế giới đang không ngừng thay đổi,
đi lên và những lãnh đạo Campuchia gốc Kmer Đỏ đang mỗi ngày được hiện
đại hóa về mọi mặt.
* Pol Pot và Đặng Tiểu Bình
Nói
đến Khmer Đỏ không thể không nhắc vai trò của Trung Cộng trong xung đột
Việt Nam Campuchia. Pol Pot và đảng CS Campuchia là thủ phạm trực tiếp
nhưng Đặng Tiểu Bình và đảng CSTQ cũng đã đóng vai trò quan trọng dẫn
tới nạn diệt chủng Campuchia. Chính Hun Sen xác nhận điều này trong luận
án của y: “Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc ủng hộ cuộc diệt
chủng của Polpot đối với nhân dân Campuchia cũng như việc Polpot xâm
lược Việt Nam”.
Quan
hệ giữa Pol Pot và Trung Cộng bắt nguồn rất sớm và trở nên chặt chẽ về
mặt lý luận sau khi Pol Pot bí mật viếng thăm Trung Cộng vào năm 1965. Y
ở lại Trung Cộng nhiều tháng và làm việc với Đặng Tiểu Bình, lúc đó là
Tổng bí thư đảng CSTQ.
Pol
Pot được Mao Trạch Đông chỉ dẫn nhiều điểm về lý luận cách mạng và
chiến tranh nhân dân. Mao thậm chí còn tặng người học trò ngoan Pol Pot
này ba chục cuốn sách của Marx, Engels, Lenin và Stalin. Dòng máu hung
bạo, ác độc trong người của Pol Pot được nhuộm đỏ bằng chủ nghĩa Mao và
chủ nghĩa dân tộc cực đoan Campuchia. Quan điểm cách mạng liên tục của
Mao ảnh hưởng Pol Pot rất nhiều trong việc hoạch định các chiến lược tấn
công chế độ Lon Nol thân Mỹ.
Pol
Pot trở lại Trung Cộng và tham khảo với Đặng Tiểu Bình từ 28 tháng Chín
đến 22 tháng 10, 1977. Đây là lần đầu tiên báo chí quốc tế chính thức
biết Saloth Sar và Pol Pot chỉ là một người. Họ Đặng rất vui khi được
Pol Pot chia sẻ quan điểm triệt để chống CSVN của y. Trung Cộng viện trợ
cho Campuchia hàng trăm xe tăng, đại pháo và nhiều máy bay chiến đấu để
chuẩn bị cho các trận đánh lớn có thể xảy ra.
Trong
giai đoạn này, Trung Cộng là đồng minh duy nhất của Khmer Đỏ. Pol Pot
chủ trương chỉ cần một người Campuchia diệt được ba chục người Việt, dân
Campuchia sẽ tiêu diệt toàn bộ dân tộc Việt Nam. Các cuộc đột kích vào
đảo Thổ Châu, Phú Quốc, nhiều địa phương thuộc các tỉnh An Giang, Tây
Ninh, đốt phát làng mạc, giết người, bắt cóc, bịt mắt thả sông của Khmer
Đỏ trong giai đoạn 1977-1978 phát xuất từ chủ trương này.
Các
trận đột kích liên tục của quân đội Pol Pot gây thiệt hại nặng cho dân
Việt sống vùng biên giới đã dẫn đến cuộc phản tấn công của CSVN vào nội
địa Campuchia trong những ngày cuối năm 1978, đánh bật tập đoàn Pol Pot
vào rừng và ngày 8 tháng Giêng 1979 thiết lập chế độ thân CSVN Heng
Samrin với Hun Sen là Bộ trưởng Ngoại Giao. Về mặt chiến lược, việc CSVN
đánh sập chế độ Pol Pot là đúng nhưng vì không có một đồng minh nào
ngoại trừ khối Liên Xô xa xôi, bị Trung Cộng, Mỹ, ASEAN liên kết nhau cô
lập nên CSVN đã rơi vào vũng lầy Campuchia suốt mười năm.
* Hun Sen là ai?
Hun
Sen chẳng phải là người xa lạ. Y nguyên là Trung đoàn phó của một đơn
vị Khmer Đỏ đào thoát theo Việt Nam và đóng vai Bộ trưởng Ngoại giao
trong chính phủ Heng Samrin. Lý lịch của y cũng giống như các lãnh đạo
CS thay đổi tùy theo thời thế. Một số nghiên cứu cho rằng y tham gia
Khmer Đỏ khá sớm, khoảng 1967, nhưng Hun Sen phủ nhận và tự khai y chỉ
gia nhập vào năm 1970 đáp lời kêu gọi của Hoàng thân Norodom Sihanouk.
Giống như nhiều lãnh đạo Campuchia có quá khứ Khmer Đỏ khác, Hun Sen cố
tình che giấu lý lịch của mình càng nhiều càng tốt.
Luật
sư Brad Adams, Giám đốc Khu vực Á châu của Human Rights Watch, nhận xét
Hun Sen là một kẻ có bản chất độc tài thô bạo không khác gì các nhà độc
tài trong cùng “câu lạc bộ 10 ngàn”, ám chỉ một nhóm gồm những nhà độc
tài thông qua bạo động, kiểm soát an ninh, dựa vào sự yểm trợ từ nước
ngoài để kéo dài quyền lực cai trị trên 10 ngàn ngày. Sau sự sụp đổ của
hàng loạt các nhà độc tài tại Tunisia, Egypt, Libya và Yemen, Hun Sen là
một trong số rất ít hội viên của “câu lạc bộ 10 ngàn” còn nắm được
quyền hành.
Tên
danh dự đầy đủ của Hun Sen là Samdech Akeak Moha Sena Padei Techo Hun
Sen còn dài hơn cả tên danh dự của nhà độc tài khát máu nhất Congo là
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga. Mới đây khi được hỏi liệu y
có lo ngại sẽ bị lật đổ như các nhà độc tài Tunisia, Egypt, Libya, máu
Khmer Đỏ trong người sục sôi lên và Hun Sen trả lời: “Tôi chẳng những
làm suy yếu đối phương mà còn tận diệt chúng… Nếu kẻ nào nghĩ mình đủ
mạnh để biểu tình, tôi sẽ đánh gục bọn chó đó và nhốt chúng vào trong
cũi”.
Hun
Sen không chỉ đe dọa thôi nhưng trong quá khứ y đã trấn áp đối lập một
cách thô bạo nhiều lần. Trong năm 1991, khi các đại diện Liên Hiệp Quốc
vào Campuchia tổ chức tuyển cử, Hun Sen đã ra lịnh cho an ninh dưới
quyền tàn sát trên 100 đảng viên của một đảng đối lập ngay trước mắt của
phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Một lần khác, vào năm 1997, Hun Sen ra lịnh
cho cận vệ tấn công bằng lựu đạn vào một buổi họp của lãnh tụ đối lập
Sam Rainsy làm 16 người chết và hơn 150 người bị thương. Cũng trong năm
1997, lo ngại bị thất cử, Hun Sen tổ chức đảo chánh chống lại đảng Hoàng
gia mà y đã liên minh. Hàng trăm người bị bắt và bị giết. Các nhân viên
Liên Hiệp Quốc khi đào xác lên đã khám phá phần lớn đã bị bắn vào đầu
trong lúc đang bị còng tay và bị bịt mắt. Những hình ảnh đó gợi lại cảnh
tượng kinh hoàng của thời Pol Pot.
* Hun Sen 1997 theo dấu chân Pol Pot 1977
Nhiều
người cho rằng Hun Sen mới ngã về phía Trung Cộng mới đây. Điều đó
không đúng. Khuynh hướng thân Trung Cộng của Hun Sen bắt đầu sau cuộc
đảo chánh đẫm máu năm 1997. Cuộc đảo chánh đã làm y mất uy tín trong các
lãnh đạo các quốc gia dân chủ Tây phương. Nhiều quốc gia đã ngưng viện
trợ cho chính phủ Hun Sen hay tiếp tục viện trợ nhưng đưa ra các điều
kiện phải tôn trọng nhân quyền.
Giống
như Pol Pot trước đây, Hun Sen không còn đường nào khác ngoài việc đi
tìm sự ủng hộ từ phía Trung Cộng. Dĩ nhiên giới lãnh đạo Trung Cộng nắm
bắt cơ hội ngàn vàng này. Từ năm 1997 đến năm 2005, Trung Cộng cung cấp
cho chính quyền Hun Sen 600 triệu Dollar qua đầu tư, viện trợ không hoàn
lại, hủy bỏ nợ đến thời hạn trả. Từ năm 2000, hàng loạt lãnh đạo cao
cấp CSTQ lần lượt viếng thăm Campuchia. Tổng bí thư Giang Trạch Dân thăm
Campuchia năm 2000, cựu Thủ tướng Lý Bằng thăm Campuchia năm 2001, Thủ
tướng Chu Dung Cơ thăm Campuchia năm 2002.
Đáp
lại, trong cùng thời gian, Hun Sen đã thăm viếng Trung Cộng tất cả 6
lần. Hun Sen từng tuyên bố “Trung Quốc nói ít làm nhiều” vì viện trợ của
Trung Cộng không đặt ra các điều kiện nhân quyền trong khi nhân quyền
lại là tiền đề thảo luận với các nước dân chủ. Trong bang giao quốc tế,
chế độ Hun Sen nhiệt tình ủng hộ các chính sách của Trung Cộng qua việc
ngăn cấm các viên chức trong chính quyền y thăm viếng Đài Loan, ủng hộ
chính sách “Một Trung Quốc”, y còn họa theo Trung Cộng khi lên tiếng kết
án Mỹ trong vụ máy bay Mỹ ném bom lầm xuống tòa đại sứ Trung Cộng tại
Belgrade năm 1999.
Trong
lãnh vực quân sự, Trung Cộng lần nữa đóng vai trò yểm trợ tích cực như
đã từng làm đối với chế độ Pol Pot. Từ sau cuộc đảo chánh của Hun Sen
năm 1997, Trung Cộng đã gởi các trang bị quân sự cho cánh Hun Sen, xây
dựng các doanh trại quân đội, sửa chữa phi trường Kampong Chhnang, hàng
năm đưa 40 sĩ quan trong quân đội Campuchia sang Trung Cộng huấn luyện.
Năm 2011, Trung Cộng cho Campuchia vay 195 triệu Dollar để mua một số
lượng máy bay trực thăng không được tiết lộ của Trung Cộng. Mới đây, 18
tháng Tám 2012, Trung Cộng viện trợ quân sự cho Campuchia thêm 19 triệu
Dollar và sẽ giúp xây dựng các bệnh viện quân đội, trung tâm huấn luyện
cho đạo quân 140 ngàn của Hun Sen.
Trong
hai tháng qua, nhiều người Việt phê bình Hun Sen và lãnh đạo hai nước
láng giềng hữu nghị thân thiết Campuchia và Lào, có lịch sử gắn bó từ
thời đảng CS Đông Dương, đã bí mật bắt tay Trung Cộng. Thật ra, không có
chỗ cho các yếu tố đạo đức, ơn nghĩa trong bàn cờ chính trị. Hơn ai hết
Hun Sen biết chính bản thân y trước đây khi được đặt vào chức Bộ trưởng
Ngoại giao ở tuổi 27 cũng chỉ là con cờ chính trị của CSVN mà thôi.
Thời thế đã đổi thay và con người thay đổi theo thời thế là chuyện bình
thường.
Nhiều
nhà phân tích cho rằng Campuchia nên giữ vai trò độc lập trong xung đột
Việt Trung để nhận được sự ủng hộ từ cả hai bên nhưng đó chỉ là lý
thuyết, lịch sử và thực tế kinh tế chính trị cho thấy, Campuchia phải
chọn Trung Cộng và chia tay với CSVN. Đi với Việt Nam, Hun Sen không
được gì trong khi đi với Trung Cộng Hun Sen có lợi cho cả cá nhân lẫn
đất nước của y. Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với Campuchia và
Bangladesh về sản phẩm tiêu dùng loại rẻ tiền nói chi là chuyện tranh
đua với Trung Cộng để viện trợ cho Campuchia.
Đối
với nội bộ Campuchia, càng đóng vai trò độc lập với Việt Nam bao nhiêu,
Hun Sen, người vẫn còn bị phe đối lập tại Campuchia tố cáo là bù nhìn
Việt Nam, sẽ càng được sự ủng hộ của nhân dân Campuchia bấy nhiêu. Thế
hệ Campuchia được CSVN cứu sống năm 1979 đã già và nhiều trong số họ đã
chết. Thế hệ trẻ lớn lên chỉ biết đến Việt Nam là kẻ thù truyền thống
của dân tộc Khmer.
Trong
diễn văn kỷ lục dài trên 5 giờ trước quốc hội vào đầu tháng 8, 2012,
Hun Sen cứng rắn cam kết “Thật ra, tuy nhiên, biên giới đường biển giữa
Campuchia và Việt Nam vẫn chưa xác định và không một giọt nước nào của
nguồn hải lưu đã bị mất về tay Việt Nam”. Các lãnh tụ đối lập trong quốc
hội Campuchia từ nhiều năm nay liên tục tố cáo Việt Nam cướp đoạt đất
đai trong đó có cả đảo Phú Quốc và vùng hạ lưu sông Cửu Long nơi có dân
Khmer Krom đang sống. Khẩu hiệu chống Việt Nam cướp đất đầy tính khích
động nhưng lại rất thu hút cử tri trong các mùa bầu cử. Sự cứng rắn đối
với Việt Nam của Hun Sen đáp ứng “nguyện vọng” nhân dân nhằm binh vực
tính chính danh của chế độ và tiếp tục là hội viên của “câu lạc bộ 10
ngàn” lâu hơn nữa.
* Hun Sen tham nhũng
Vi
trùng tham nhũng sinh sản rất nhanh trong các chế độ độc tài, nơi quyền
lực tập trung trong tay một nhóm nhỏ người nắm quyền cai trị. Tham
nhũng là một trong những căn bịnh đang đè nặng lên xã hội Campuchia và
gia đình bị tố cáo tham nhũng nhiều nhất là Hun Sen. Mặc dù chỉ làm việc
cho chính phủ trong suốt hơn 30 năm, gia đình y có một đời sống sung
túc hơn bất cứ người dân Campuchia nào.
Cũng
theo lời của luật sư Brad Adams thuộc tổ chức Human Rights Watch, mười
năm trước, một viên chức Bộ ngoại giao Mỹ đã tiết lộ cho ông biết tài
sản của Hun Sen được ước lượng vào khoảng 500 triệu Dollar. Không ai
biết chính xác giá trị bất động sản và dự trữ Dollar, vàng bạc của Hun
Sen và gia đình tại các ngân hàng ngoại quốc hiện nay là bao nhiêu. Phản
ứng trước những lời tố cáo tham nhũng, Hun Sen cho báo chí biết y và
gia đình chỉ sống bằng đồng lương thủ tướng 1,150 Dollar mỗi tháng. Tuy
nhiên không một nhà phân tích nào tin vào con số không thể nào đúng với
thực tế này.
Không
có CSVN, Hun Sen không chỉ mù một mắt mà đã mồ hoang mả lạnh từ lâu
rồi, nhưng với bản chất bạo động, háo danh, tham vọng quyền lực sẵn có
của người cựu Khmer Đỏ, Hun Sen rất dễ dàng bị Trung Cộng khích động và
mua chuộc. Lãnh đạo Trung Cộng thừa tiền bạc và cũng thừa kinh nghiệm
làm ăn với các lãnh đạo độc tài. Cả một đám lãnh đạo châu Phi xa xôi và
đắt tiền mà Trung Cộng còn mua chuộc được dễ dàng sá gì một Hun Sen hay
một Choummaly Sayasone rẻ mạt ở sát bên nhà.
* Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên
Và
tất cả những oan nghiệt đó, dùng chữ của Hun Sen trong luận án tiến sĩ
chính trị của y, chỉ vì cùng “từ một bào thai” CS. Lịch sử hiện đại của
ba nước bị trói chặt bởi sợi xích oan nghiệt CS. Thật vậy, ý thức hệ CS
là nguyên nhân sâu xa cho tất cả đau thương thảm khốc mà người dân vô
tội trong ba quốc gia Việt, Trung, Campuchia đã chịu đựng. Cách mạng văn
hóa ở Trung Cộng, Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, Năm số không (Year
Zero) ở Campuchia đều là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác Lê Mao.
Chủ
nghĩa Cộng Sản đã tàn trên phần lớn trái đất nhưng tại ba nước Việt,
Trung, Campuchia bóng ma Cộng Sản vẫn còn ám ảnh thường xuyên trên số
phận con người. Ngày nào đảng CS còn cai trị hay có ảnh hưởng lớn, ba
nước Việt, Trung, Miên lại sẽ đi vòng theo một chu kỳ thù địch, bắt đầu
từ chỗ nợ máu xương và chấm dứt ở chỗ thanh toán nhau bằng xương máu.
Trung
Cộng có tranh chấp biên giới với gần 20 quốc gia, lớn như Ấn Độ và nhỏ
như Bhutan, nhưng chỉ có Việt Nam là hệ lụy nặng nề. Campuchia cũng
tranh chấp biên giới với Thái Lan và thậm chí mới pháo kích vào đất nhau
nhưng chỉ xung đột với Việt Nam là người ta hình dung ngay đến một viễn
ảnh vô cùng thảm khốc.
* Tại sao?
Chỉ
vì cả ba nhánh sông này đều phát xuất từ một nguồn CS. Những người như
Hồ Chí Minh, Trần Phú, Norodom Sihanouk, Heng Samrin, Pol Pot, Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm
đã xác lạnh từ lâu nhưng tên tuổi họ vẫn được nhắc đi nhắc lại trong
lịch sử ba nước như những oan hồn còn nặng nợ trần gian.
Thật
vô cùng phi lý khi những đứa bé Campuchia sinh ra ở Nam Vang, đứa bé
Việt Nam sinh ra ở Hà Nội hôm nay lại phải gánh chịu oan khiên từ thời
đảng CS Đông Dương. Và cũng thật buồn cười khi quan hệ giữa hai quốc gia
không đặt căn bản trên luật pháp quốc tế mà bị chi phối bởi bốn câu thơ
“Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện” đầy sáo ngữ, mỉa mai và phản thực tế.
Việt
Nam chưa bao giờ bị cô lập hơn hôm nay. Trong giai đoạn xung đột biên
giới Việt Miên 1977-1979, ít ra còn có phe Liên Xô ủng hộ, ngày nay một
mình trên hoang đảo, chung quanh chẳng còn ai và ảnh hưởng mỗi ngày thêm
hẹp. Giới lãnh đạo đảng CSVN chẳng những biết rõ mà còn là đồng tác giả
của thảm trạng Việt-Trung-Miên.
Trước
năm 1975, CSVN đã góp phần nuôi dưỡng tên đồ tể Pol Pot này. Năm 1965,
Pol Pot đã từng đi bộ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội để tham
khảo Lê Duẩn về chiến lược chiếm Campuchia. Tháng Bảy năm 1975, Lê Duẩn
và Lê Đức Thọ là hai trong số những quốc khách đầu tiên chính thức viếng
thăm nước Campuchia Dân Chủ.
Suốt
hơn 30 năm, nhân dân Việt Nam phải chịu đựng từ thảm họa này sang thảm
họa khác như một chu kỳ lập đi rồi lập lại nhưng giới lãnh đạo Đảng
không có một sách lược cụ thể, dứt khoát nào để đưa Việt Nam ra khỏi
vòng bế tắc. Lý do đơn giản chỉ vì việc duy trì quyền lực và quyền lợi
của giới lãnh đạo đảng được xem là một ưu tiên hàng đầu, trên cả chủ
quyền đất nước và tương lai dân tộc.
Một
người có ý thức nào cũng biết, cách duy nhất để thoát ra khỏi chu kỳ
máu xương thù hận Việt–Trung-Miên là Việt Nam trước hết phải thoát ra
khỏi bóng tối của chủ nghĩa Cộng Sản độc tài bước ra phía ánh sáng của
thời đại tự do dân chủ.
Chỉ
khi nào Việt Nam đứng dưới bầu trời tự do dân chủ giới lãnh đạo Trung
Cộng mới không có quyền nghĩ những đại diện của quốc gia Việt Nam không
Cộng Sản kia là “đám côn đồ”.
Chỉ
khi nào Việt Nam đứng dưới bầu trời tự do dân chủ, Hun Sen cùng đảng
Dân chủ Nhân dân của ông ta mới không còn nghi ngờ những đại diện của
quốc gia Việt Nam không CS thật ra chỉ là những tên cướp nước giả nhân
giả nghĩa.
Tất
cả sẽ đều bình đẳng trước Hiến chương Liên Hiệp Quốc và các công ước
quốc tế mà ba bên đã ký kết. Ân oán nợ nần giữa các đảng CS không có
liên hệ gì đến dân tộc Việt Nam. Những khẩu hiệu có tính tuyên truyền
như “16 chữ vàng”, “tình hữu nghị” sẽ bị gạch bỏ theo chế độ Cộng Sản đã
sáng tác ra chúng.
Trong
cuộc đàm phán đa phương hay ngay cả song phương với Trung Cộng và
Campuchia, các đại diện của một nước Việt Nam dân chủ có thể thắng, có
thể huề và cũng có thể thua, nhưng dù thắng, huề hay thua đều dựa trên
cơ sở luật quốc tế và luôn hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp
lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước Việt Nam dân chủ, độc lập,
chủ quyền, và sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự
do, hòa bình trên thế giới.
Con
đường giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một con đường dài, gian
nan, đầy gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.
Nhưng nếu không đi sẽ không bao giờ đến. Cho dù lâu dài và gian nan cũng
phải bắt đầu và điểm bắt đầu mà một người Việt Nam yêu nước nào cũng có
thể làm được, đó là tích cực đóng góp vào tiến trình dân chủ hóa Việt
Nam.
Trần Trung Đạo
Không có nhận xét nào