“Biển Đông” không phải là trò chơi
của Bắc Kinh, sự cứng rắn của Hà Nội đem lại lợi thế của Washington và
ngược lại. Tự do hàng hải hay bảo vệ chủ quyền giờ đây đứng cùng một
chiến tuyến.
Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào cảng Đà Nẵng tháng 3 năm 2018. |
Sự quyết đoán: Mỹ, Việt, và Trung Quốc ở Biển Đông
Thời
kỳ của Tổng thống Mỹ Barack Obama là thời kỳ “trỗi dậy toàn diện” của
Trung Quốc ở Biển Đông, khi mà nước này liên tục gây sự với các nước
đang tranh chấp chủ quyền trong khu vực, chủ yếu là với Hà Nội. Và không
phải ngẫu nhiên, khi gần đây, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên
quân Lầu Năm Góc nhận định rằng, ngay cả việc Bắc Kinh chiếm giữ rạn san
hô Scarborough vào năm 2012, “có lẽ có thể tránh được nếu Washington
đóng vai trò tích cực hơn, quyết tâm hơn trước và trong cuộc khủng
hoảng.”.
Nhưng
khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền, thì 2 năm trong nhiệm kỳ đầu
tiên, Mỹ đã có những động thái răn đe trở lại, khi 13 nghị sĩ Mỹ trình
dự luật trừng phạt Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông. Theo đó, đạo luật sẽ
cho phép Mỹ đóng băng thậm chí tịch thu tài sản và thu hồi thị thực của
các cá nhân tham gia vào các chính sách đe dọa hòa bình, an ninh khu
vực. Đạo luật này không chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân có
liên quan, mà bao trùm lên cả Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Việt
Nam, quốc gia va chạm chủ quyền trực tiếp với Bắc Kinh cũng bắt đầu
trỗi dậy, ít nhất trong ngôn ngữ ngoại giao, khi lên tiếng phản đối việc
xây dựng 10 đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Trường Sa, cũng như "ủng hộ
quyền tự do hàng hải" ở Biển Đông khi hai tàu chiến Mỹ áp sát 3 đảo ở
Hoàng Sa. Đặc biệt, riêng trong tháng 4.2019, đã tố cáo Trung Quốc vi
phạm chủ quyền khi lắp đặt thiết bị làm nhiễu sóng tại quần đảo Hoàng
Sa. Trước đó, vào năm 2018, Hà Nội đã đưa ra những yêu sách cứng rắn với
Trung Quốc trong cuộc đàm phán về Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC)
giữa Asean và Bắc Kinh, Reuters đưa tin. ngăn chặn Trung Quốc thiết lập
Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên khu vực Biển Đông.
Quyết đoán Mỹ, Việt?
Nhìn
vào những động thái của hai nước Việt – Mỹ vào năm 2018 và nửa năm
2019, có thể nhận thấy sự quyết đoán của cả hai quốc gia liên quan đến
vấn đề Biển Đông. Mặc dù, với Mỹ là “tự do hàng hải”, với Việt Nam là
“chủ quyền quốc gia”, nhưng đích đến của cả hai nước là phản ứng lại với
những gì mà Trung Quốc đã và đang đe dọa tại khu vực, nhất là xu hướng
“quân sự hóa” vùng Biển Đông.
Sự
trỗi dậy của Bắc Kinh trong nhiều năm qua, đặc biệt với sự nhu nhược ít
nhiều của chính quyền Obama đã trở thành một gánh nặng cho chính quyền
Hà Nội lẫn chính quyền Tổng thống Trump. Cả hai, dường như đã phải giải
quyết bài toán trong việc cố gắng ngăn chặn những nỗ lực sau cùng (hoàn
tất) của Bắc Kinh liên quan đến đường băng, đồn trú, bệnh viện và vũ khí
tại các đảo nhân tạo.
Khó
có thể đánh giá điều tiếp theo sẽ là gì, nhưng mối đe dọa của Trung
Quốc đã trở thành một động lực lớn, thúc đẩy Mỹ-Việt gần nhau về tư duy
và định hướng đối phó với Bắc Kinh tại vùng Biển Đông. Và thực tế đã cho
thấy, cả hai quốc gia dường như cùng 1 chiến lược, ngăn chặn sự trỗi
dậy của Bắc Kinh bằng sự quyết đoán ở mỗi quốc gia.
Khi
tại Mỹ, dự luật trừng phạt Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông đã khoáy động
chính trường Mỹ, thì tại Việt Nam – nó ngay nóng bỏng ngay trên chuyên
trang Tuổi Trẻ và làm nức lòng không ít người quan tâm đến việc bảo vệ
chủ quyền. Lý do, Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất hiện tại có thể ngăn chặn
và kiềm chế “con rồng Bắc Kinh”. Nhưng Việt Nam, với vị trí địa chiến
lược, cũng như tính chất “kiên cường” trong bảo vệ chủ quyền quốc gia,
lãnh thổ cũng là đối tác chiến lược của Mỹ trong triển khai những động
thái “ngăn chặn trỗi dậy”. Không phải nghiễm nhiên, mà trong quan hệ hợp
tác quốc phòng Việt – Mỹ, tăng cường năng lực hàng hải được coi là ưu
tiên giữa hai quốc gia.
Việt – Mỹ đều hưởng lợi?
Hãy thử hình dung mối đe dọa của Trung Quốc trong hai quốc gia ảnh hưởng nhiều nhất.
“Vài
năm trước, là những tiền đồn nhỏ bé với sức chiến đấu bằng không - có
lẽ vài chục binh sĩ hầu như không thể giữ chân họ khô ráo. Từ năm 2013,
Trung Quốc đã biến chúng thành những căn cứ khổng lồ, một số có trạm
không quân có thể chứa máy bay chiến đấu và máy bay ném bom tiên tiến.” –
tướng Joseph F. Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân
Lầu Năm Góc chia sẻ trên The Washington Post.
Một “mặt trận chung” ngăn chặn dã tâm của Trung Quốc đã được hình thành.
Mới
đây nhất, trong một ý kiến trên tờ Bưu Điện Hoa Nam, ông Lê Hồng Hiệp
đã nhận định rằng, Việt Nam đang thúc đẩy khối ASEAN hình thành một COC
cho Biển Đông. Và tất nhiên, hiệp ước này sẽ mang tính ràng buộc, khả
năng ngăn chặn, và thiết lập một quy tắc mang tính chế tài hơn cho khu
vực Biển Đông đầy sóng gió.
Không
còn những phản đối mang tính “ước lệ”, Việt – Mỹ đi vào trận chiến với
sự chế tài nhiều hơn, cần thiết hơn. Và chính điều này, đã tạo ít nhiều
“cảm hứng” cho các quốc gia còn lại trong khu vực.
Duterte của Philippines kêu gọi hành động để giảm nguy cơ xung đột quân sự ở Biển Đông.
Trang
tin CNBC ngày 1.6 đã dẫn tin cho biết Tổng thống Duterte của
Philippines đã kêu gọi hành động để giảm nguy cơ xung đột quân sự ở Biển
Đông, trong đó, ông Duterte nhấn mạnh “lỗi của Bắc Kinh liên quan đến
yêu sách mở rộng ở vùng biển Đông”.
Việt
– Mỹ đã cho thấy một phản ứng thích hợp của hai nước trước việc Trung
Quốc “thất hứa”, “không cam kết đủ” về an ninh và hòa bình Biển Đông.
“Biển
Đông” không phải là trò chơi của Bắc Kinh, sự cứng rắn của Hà Nội đem
lại lợi thế của Washington và ngược lại. Tự do hàng hải hay bảo vệ chủ
quyền giờ đây đứng cùng một chiến tuyến.
(VNTB)
Không có nhận xét nào