Liệu Việt Nam có thể làm gì khác để
thuyết phục quốc tế không trừng phạt, sau khi lật đổ chính quyền Pol Pot
năm 1979? Khi nhìn lại, một số học giả đã chỉ ra luận cứ yếu ớt của
Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) sau biến cố.
Nhưng
mặt khác, trong bối cảnh tranh đấu Chiến tranh Lạnh, phải chăng dù Việt
Nam có làm gì, cũng không thể thay đổi phản ứng quốc tế?
Việt Nam đưa quân đánh sang Campuchia vào dịp Giáng sinh 1978, nhanh chóng đánh bại quân của Pol Pot.
Pol
Pot bỏ chạy khỏi thủ đô Phnom Penh ngày 7/1/1979. Ngoại trưởng của Pol
Pot, Ieng Sary, đòi Hội đồng Bảo an LHQ họp khẩn cấp để lên án Việt Nam.
Trong
sách Saving Strangers: Humanitarian Intervention in International
Society (2000), Nicholas J. Wheeler cho hay Hội đồng Bảo an mở cuộc họp
ngày 11/1/1979. Tại đây, Đại sứ Việt Nam Hà Văn Lâu tuyên bố Mặt trận
đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã lật đổ Pol Pot.
Ông
này thừa nhận bộ đội Việt Nam có giao chiến với Khmer Đỏ nhưng nói đây
chỉ là tự vệ. Theo ông, có hai cuộc chiến đang diễn ra, một là chiến
tranh biên giới của Pol Pot chống Việt Nam, và hai là chiến tranh cách
mạng của nhân dân Campuchia.
Việt Nam khăng khăng chỉ có chiến tranh cách mạng của nhân dân mới lật đổ Pol Pot, còn Việt Nam chỉ tự vệ mà thôi.
Bất
chấp sự có mặt của 100.000 lính Việt Nam ở Campuchia, ông Hà Văn Lâu cố
gắng thuyết phục Hội đồng Bảo an rằng nhà nước Campuchia Dân Chủ do Pol
Pot dẫn dắt bị lật đổ vì quân du kích của Mặt trận và nhân dân
Campuchia nổi dậy mà thôi.
Tiến sĩ Nicholas J. Wheeler đặt câu hỏi: Luận điểm hai cuộc chiến dễ dàng bị vạch ra là xạo, vậy vì sao Việt Nam sử dụng?
Có
vẻ như ban đầu Việt Nam tưởng rằng thế giới sẽ nhanh chóng quên luôn
chuyện Việt Nam tiến vào Campuchia. Trong thập niên 1980, ngoại trưởng
Singapore Kishore Mahbubani viết trên Foreign Affairs rằng Đại sứ Việt
Nam ở LHQ đã nói với ông ta ngay từ tháng 1/1979 rằng "trong hai tuần,
thế giới sẽ quên vấn đề Campuchia thôi".
Suy nghĩ này hóa ra là sai lầm, và Việt Nam phải trả giá.
Trong
sách Vietnam's Intervention in Cambodia in International Law (1990),
Gary Klintworth nói Việt Nam lẽ ra đã có thể giảm bớt sức ép quốc tế nếu
biết nói lý lẽ tốt hơn.
Theo
Gary Klintworth, lẽ ra Việt Nam nên nói chúng tôi can thiệp vừa vì tự
vệ vừa vì can thiệp nhân đạo. Gary Klintworth có cảm tình với Việt Nam,
nói rằng lật đổ Pol Pot là "hành vi tự vệ có lý (reasonable)".
Klintworth
thậm chí cho rằng việc Việt Nam thay đổi chế độ ở Phnom Penh cũng chấp
nhận được vì Việt Nam cần một chính quyền bớt thù địch. Klintworth thậm
chí so sánh Việt Nam với việc đồng minh chiếm đóng Đức và Nhật năm 1945.
Tiến
sĩ Nicholas J. Wheeler không hoàn toàn tin vào luận cứ của Klintworth
nhưng thừa nhận: "Luận điểm hai cuộc chiến bị chế giễu ở Hội đồng Bảo
an, nên Việt Nam rõ là để lỡ cơ hội khi không sử dụng lý lẽ trên để mà
biện hộ cho sử dụng vũ lực."
Việt Nam không đề cập 'lý do nhân đạo'
Sẽ thế nào nếu việc dùng vũ lực ở Campuchia được biện hộ thêm với lý do nhân đạo?
Đây
là một câu hỏi thú vị, nhưng Nicholas J. Wheeler chỉ ra rằng Việt Nam
khi đó không hề nhắc tới lý do nhân đạo để biện hộ cho mình. Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch được dẫn lời nói Việt Nam chỉ quan tâm về an
ninh, còn nhân quyền là quan ngại của nhân dân Campuchia.
Nicholas J. Wheeler đặt ra ba khả năng vì sao Việt Nam không dùng lý do nhân đạo.
- Một, có thể Việt Nam âm thầm thừa nhận quy tắc quốc tế về chủ quyền, không can thiệp và không dùng vũ lực. Việc Đại sứ Hà Văn Lâu dùng luận điểm hai cuộc chiến là cách biện minh hành động dựa trên luật quốc tế.
- Hai, có thể Việt Nam nghĩ rằng đưa ra lý do nhân đạo nghe cũng kỳ khôi khi mà chính Việt Nam đã im lặng về vi phạm nhân quyền trong bốn năm Pol Pol cầm quyền từ 1975 đến 1979.
- Ba, có thể Hà Nội sợ rằng đặt ra lý do nhân đạo thì tạo thành cớ để quốc tế tấn công Việt Nam trong tương lai.
Môi trường quốc tế khi đó là 'thù địch'
Phản ứng thù địch của quốc tế lúc này xuất phát từ ba nhóm:
Mỹ và các đồng minh xem hành vi của Việt Nam là một phần trong Chiến tranh Lạnh.
Asean lo sợ Việt Nam can thiệp vào Campuchia báo hiệu tham vọng bá chủ khu vực.
Các nước trung lập lo ngại Việt Nam vi phạm luật quốc tế.
Vấn
đề đưa ra Đại hội đồng LHQ. Tại Đại hội đồng, Hoàng thân Sihanouk, đại
diện chính quyền Campuchia Dân Chủ, nói hành vi của Việt Nam là "xâm
lấn, chiếm lãnh thổ".
Trung Quốc ủng hộ, nói rằng luận cứ hai cuộc chiến của Việt Nam là "dối trá".
Mỹ
thì thừa nhân vi phạm nhân quyền tại Campuchia, và còn thừa nhận Việt
Nam có lo ngại an ninh chính đáng khi Campuchia tấn công vùng biên giới.
Nhưng Mỹ nói "tranh chấp biên giới không cho phép một quốc gia quyền áp
đặt một chính phủ thay chính phủ khác bằng vũ lực".
Châu Âu và Nhật ngừng mọi viện trợ kinh tế cho Việt Nam.
Anh
Quốc nói "dù nhân quyền ở Campuchia có thế nào, không thể tha thứ cho
Việt Nam, vốn có nhân quyền cũng đáng lên án, khi vi phạm lãnh thổ
Campuchia Dân Chủ".
Đại sứ Pháp thậm chí bác bỏ lý do nhân đạo:
"Quan niệm rằng vì một chính quyền đáng xấu hổ, mà có thể biện minh cho can thiệp nước ngoài và lật đổ, thật là nguy hiểm."
Đại
sứ Na Uy nói Na Uy "mạnh mẽ phản đối" các vi phạm nhân quyền của Pol
Pot, nhưng vi phạm nhân quyền này "không thể biện hộ cho hành động của
Việt Nam".
Bồ
Đào Nha nói hành động của Việt Nam "vi phạm rõ rệt nguyên tắc không can
thiệp" bất chấp hồ sơ nhân quyền "tệ hại" ở Campuchia.
Quân Khmer Đỏ với vũ khí Trung Quốc trên một chiếc xe mới toanh do TQ cung cấp gần Anlong Veng trong ảnh chụp của Thierry Falise ngày 1/12/1990 |
New
Zealand cũng nói Campuchia Dân Chủ của Pol Pot có nhiều cái xấu, nhưng
"việc xấu của một nước không biện minh cho sự xâm lăng lãnh thổ của một
nước khác".
Australia
chỉ ra rằng nước này không hề có quan hệ ngoại giao với Pol Pot nhưng
lại "hoàn toàn ủng hộ quyền của Campuchia Dân Chủ được độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ".
Singapore phát biểu:
"Không
nước nào có quyền lật đổ chính phủ Campuchia Dân Chủ, dù chính phủ này
có đối xử tàn tệ nhân dân thế nào. Đi ngược nguyên tắc này có nghĩa là
thừa nhận chính phủ nước ngoài lại có quyền can thiệp và lật đổ chính
phủ nước khác."
Singapore nói thêm họ lo ngại Việt Nam đe dọa an ninh của Singapore và an ninh khu vực.
Đến
phiên các nước không liên kết như Bolivia, Gabon, Kuwait, Nigeria,
Bangladesh. Các nước này tránh lên án trực tiếp Việt Nam nhưng cũng
không ủng hộ Việt Nam, nhấn mạnh quy tắc không can thiệp.
Nhưng
tại Hội đồng Bảo an, phe xã hội chủ nghĩa, dẫn đầu là Liên Xô và Tiệp
Khắc, lại ủng hộ luận cứ hai cuộc chiến của Việt Nam.
Liên Xô bảo chính Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã lật đổ Pol Pot.
Đại
sứ Liên Xô Troyanovsky còn nhấn mạnh "tội ác ghê tởm" của chính phủ Pol
Pot. Nhưng Anh phản bác lại, nói rằng khi Anh nộp dự thảo nghị quyết
lên án vi phạm nhân quyền của Pol Pot, chính Liên Xô và Cuba đã phản
đối.
Vài ngày sau phiên họp ở LHQ, Trung Quốc kéo quân sang Việt Nam, mở đầu cuộc chiến biên giới ngắn ngày.
Ngày
16/3, Hội đồng Bảo an bỏ phiếu về một nghị quyết do Asean bảo trợ, kêu
gọi ngừng bắn trong toàn khu vực, rút quân đội nước ngoài, và giải quyết
bằng hòa bình.
Liên Xô buộc phải dùng quyền phủ quyết để bác bỏ nghị quyết này.
Đến cuối năm 1979, Đại hội đồng họp bàn việc ai sẽ đại diện cho Campuchia tại LHQ.
Tại đây, 71 nước bỏ phiếu bác bỏ chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia (được Việt Nam và Liên Xô ủng hộ).
Tại phiên họp này, các nước như Singapore bác bỏ lý do nhân đạo.
Singapore
nói: "Nếu chúng ta thừa nhận học thuyết can thiệp nhân đạo, thế giới sẽ
càng nguy hiểm hơn cho các nước nhỏ như chúng tôi."
Nhiều
nước trong Đại hội đồng cũng nói rằng việc họ phản đối Việt Nam không
có nghĩa họ ủng hộ hành động vi phạm nhân quyền của Pol Pot.
Asean tiếp tục gây sức ép với phiên thảo luận ba ngày trong tháng 11/1979 tại Đại hội đồng.
Malaysia,
đại diện cho Asean, nói can thiệp nội bộ vào Campuchia là nguyên nhân
khiến an ninh suy sụp ở Đông Nam Á. Asean nói họ lo ngại xung đột sẽ lây
lan sang Thái Lan.
Đại
sứ Malaysia lúc này nói họ thừa nhận Khmer Đỏ đã gây ra cái chết hàng
trăm ngàn người, nhưng việc này không biện minh cho can thiệp của Việt
Nam.
Malaysia nói nguyên tắc không can thiệp bảo vệ kẻ yếu trước kẻ mạnh.
'Thuyết phục về nhân đạo'
Tiến
sĩ Nicholas J. Wheeler nêu quan điểm của ông rằng sự can thiệp của Việt
Nam ban đầu rõ ràng được nhân dân Campuchia chào đón vì đã cứu rỗi họ.
Trong
cuốn Brother Enemy, Nayan Chanda mô tả: "Tại hàng trăm ngôi làng
Campuchia, cuộc xâm lấn của Việt Nam được chào đón bằng niềm vui và cảm
giác không thể ngờ được."
Như vậy, Nicholas J. Wheeler khẳng định hành động của Việt Nam đã đáp ứng được tiêu chuẩn cần thiết cho can thiệp nhân đạo.
Nhưng
ông cũng nói, từ góc nhìn luật pháp, liệu việc dùng vũ lực của Việt Nam
được nhìn ra sao? Yêu cầu luật quốc tế ở đây là không để nước khác bị
mất đất, không thay đổi chế độ, và quân can thiệp phải rút ngay lập tức.
Thế thì, Việt Nam lại chỉ đáp ứng được tiêu chí một (không làm mất đất), nhưng hai tiêu chí sau thì không.
Trong phần kết luận, Nicholas J. Wheeler chỉ ra rằng:
"Không
có bằng chứng rằng vi phạm nhân quyền của Pol Pot đóng vai trò gì trong
quyết định xâm lược Campuchia: Việt Nam chỉ trích vi phạm nhân quyền
chỉ khi tiện lợi về chính trị."
"Nếu giải pháp ngoại giao đạt được với Campuchia Dân Chủ ở biên giới, Việt Nam cũng sẽ sống chung với kẻ láng giềng giết người."
Nicholas J. Wheeler cho rằng chính vì Việt Nam tin rằng các lợi ích an ninh quan trọng bị rủi ro nên mới tiến vào Campuchia.
"Giống
như Ấn Độ can thiệp Đông Pakistan, Việt Nam sẵn lòng đặt cược mạng sống
của bộ đội và chi vật lực thiếu thốn chỉ vì thấy có đe dọa căn bản cho
an ninh từ Trung Quốc ở Bắc và Campuchia ở Nam."
Klintworth
cũng nói: "Cứu người là kết quả dĩ nhiên nhờ Việt Nam can thiệp…nhưng
đó luôn là quan tâm thứ hai theo sau lo ngại cho lợi ích an ninh quan
trọng."
Nhưng
dẫu vậy, Klintworth cho rằng hành vi của Việt Nam cũng có thể chấp nhận
được "vì kết quả của sự can thiệp là ngừng việc giết chóc" ở Campuchia.
Nhưng
Việt Nam đã không hề dùng lý do can thiệp nhân đạo để nói với quốc tế,
có thể một phần vì lo ngại lý do này lại được dùng để đánh chính Việt
Nam sau này. Ngoài ra, sau khi Việt Nam đã im lặng về Pol Pot suốt bốn
năm, LHQ cũng có thể nói Việt Nam đạo đức giả.
Nhưng dẫu sao, nếu Việt Nam đã sử dụng lý do can thiệp nhân đạo, nó cũng còn thuyết phục hơn luận điểm hai cuộc chiến.
Mặt
khác, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, khi phương Tây xem Việt Nam là
quân cờ của Liên Xô, có thể mọi tranh luận pháp luật thực ra chỉ là thứ
yếu. Dù Việt Nam có nói gì đi nữa, hành động của Việt Nam khi ấy vẫn sẽ
bị đặt trong bối cảnh tranh đấu của hai phe cộng sản và tư bản ở Đông
Nam Á.
Ngày 24/12/1979, Liên Xô kéo quân vào Afghanistan, lấy lý do thực thi Hiệp định hữu nghị song phương ký năm 1978.
Ba ngày sau, Babrak Karmal được Liên Xô đưa lên làm lãnh đạo đất nước.
Đến tháng 2/1980, Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết "lên án" sự can thiệp của Liên Xô, đòi rút quân khỏi Afghanistan.
Tháng
10/1983, 2.000 thủy quân lục chiến Mỹ tiến đánh hòn đảo Grenada, lật đổ
chính quyền theo chủ nghĩa Marx, thay bằng một chính phủ tạm quyền.
Tháng 11 năm đó, Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết nói hành động của Mỹ "vi phạm trắng trợn luật quốc tế".
Một
ví dụ tương tự mà khác biệt cùng năm 1979. Tanzania kéo quân vào Uganda
lật đổ chế độ độc tài, vi phạm nhân quyền của Idi Amin tháng 4/1979.
Giống như trường hợp Việt Nam, biến cố này vi phạm nguyên tắc chủ quyền và phi can thiệp.
Tuy vậy, các nước phương Tây hoan nghênh kết quả ở Uganda, và ngầm chấp nhận phương pháp vũ lực.
Có thể vì ở Uganda khi đó, chả có lợi ích chiến lược nào.
(BBC)
Không có nhận xét nào