David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ nghỉ hưu, thường xuyên viết về
Việt Nam cho báo Asia Sentinel và các tạp chí quốc tế khác. Bài tiếng
Anh của tác giả viết cho Asia Sentinel, hiện chưa đăng tải. Bản dịch
tiếng Việt này đăng trên Tiếng Dân dành cho độc giả Việt Nam, có thể
không hoàn toàn giống như bài tiếng Anh sẽ đăng sau đó.
Bìa sách “Lên tiếng ở Việt Nam” của GSTS Ben Kerkvliet mới xuất bản
Một sáng mùa Xuân năm 2015, những người dân Hà Nội thức dậy với tiếng loạt xoạt của cưa xích trên hai đại lộ của thủ đô. Các nguồn tin chính thức cho biết, cây cối chạy dọc theo hai con đường này đã già cỗi và bệnh tật. Nhưng rõ ràng là đa số chúng đều xanh tốt.
Cho dù ở Việt Nam hay ở nơi nào khác, các quan chức có quyền làm như vậy thường là những người tham ô hàng hóa công, trong trường hợp này là loại gỗ lớn tuổi xứ nhiệt đới. Phần bất thường là công dân Hà Nội đã đối mặt, làm chính quyền thua cuộc. Phối hợp với các phương tiện truyền thông xã hội, không bị cảnh sát chống bạo động triển khai để duy trì trật tự, hàng ngàn người đã xuống đường để bảo vệ 5000 cây cối, đã được chỉ định để chặt đốn. Trong khoảng một ngày, nhiều bộ trưởng đã lên án vụ chặt đốn cây này. Chính quyền thành phố Hà Nội chuyển sang thái độ giảm bớt tai tiếng.
Gần như cùng lúc, tại các xưởng của một hãng giày khổng lồ ở Thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 90.000 công nhân đã đình công. Họ rời bỏ máy may để phản đối một đạo luật mới, cho phép chính phủ giữ lại các khoản đóng góp quỹ hưu trí cho đến khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu. Hầu hết những người đình công là phụ nữ ở độ tuổi trên dưới 20, điển hình là những người tiết kiệm, với ý định lúc về hưu sẽ có chút vốn để làm ăn hoặc xây nhà.
Sự việc diễn ra trong nhiều ngày và không có kết quả, chính quyền thành phố đã triển khai cảnh sát và kêu gọi những người đình công quay trở lại làm việc. Sau đó, chính quyền trung ương vào cuộc, không phải để đè bẹp cuộc đình công trái phép mà để đồng ý rằng những người đình công đã đúng. Chính quyền Hà Nội đề xuất, khi không còn làm việc, công dân có thể chọn cách nhận một lần một khoản tiền cho các khoản chi trả an sinh xã hội của họ, hoặc nhận tiền lãi hàng tháng của khoản tiền đó dưới sự quản lý của chính phủ. Người đình công đã quay lại làm công việc lắp ráp giày dép cho hãng Nike, Adidas và các hãng nổi tiếng khác. Một tháng sau, Quốc hội Việt Nam đã xác nhận thỏa thuận này.
Những sự kiện như thế này tạo nên ít nhiều hoài nghi khi Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và các tổ chức phi chính phủ khác mô tả Việt Nam là địa ngục trần gian. Chúng là bằng chứng cho bức chân dung khác của Việt Nam như là một “nhà nước đáp ứng – đàn áp” của GSTS Ben Kerkvliet. Trong hai thập niên, ông đã phân tích những người Việt bình thường gây ra sự ồn ào như thế nào và khi nào, và nhà nước độc đảng làm gì với việc đó. Bây giờ ông Kerkvliet đã kết hợp tất cả các sự kiện lại với nhau trong cuốn sách “Lên tiếng ở Việt Nam”, một cuốn sách rất dễ đọc, vừa được Nhà xuất bản Đại học Cornell phát hành.
Có hai loại “chính trị” ở Việt Nam.
Đầu tiên, có những tranh luận giữa các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khoảng bốn triệu đảng viên cộng sản là nhân viên chính phủ, giành quyền quyết định mọi thứ cho hơn 90 triệu dân. Dù thời gian đã làm xói mòn hào quang cách mạng và các quan hệ tham nhũng đã làm sạt lở đạo đức của họ, nhưng họ không ngừng tranh luận về những gì đảng phải làm để duy trì quyền đưa ra quyết định thay cho hơn 90 triệu người Việt Nam khác.
Thứ hai, có một lĩnh vực mà ông Kerkvliet đã tập trung vào, điều mà ông gọi là ‘phê bình chính trị công cộng’, ‘mối quan hệ đối thoại’ giữa chế độ và các công dân bất bình. Những vụ lộn xộn mà ông phân tích chủ yếu là tại địa phương: công nhân đình công để nhận được lương và điều kiện làm việc tốt hơn với những người quản lý nhà máy là nước ngoài, nông dân chống lại việc giao đất đai của họ với giá đền bù rẻ mạt, hoặc những người sinh sống bị ô nhiễm công nghiệp gây ảnh hưởng.
Kerkvliet lập luận, khi một số công dân này lên tiếng, “phản ứng của chính quyền nhà nước độc đảng thường phối hợp giữa sự đáp ứng với sự khoan dung và sự đàn áp”. Sự đàn áp thường là biện pháp sau cùng, khi một nhóm nhỏ còn lại vẫn từ chối sự thỏa thuận của đại diện nhà nước đề nghị.
Tiến sĩ Kerkvliet hậu thuẫn cho kết luận của mình với một đống chú thích. Các chú thích đó là để thuyết phục các chuyên gia, nhưng sẽ không phạm tới niềm vui của một số độc giả bình thường trong việc tìm kiếm một cuốn sách học thuật, viết về một chủ đề quan trọng mà không có nhiều biệt ngữ hay vẻ thông thái giả tạo.
Cuộc khảo sát của Kerkvliet lật đổ các báo cáo bi quan không ngừng của một số tổ chức phi chính phủ chuyên về cổ vũ quyền con người. Ông cho chúng ta thấy rằng, vô số cuộc biểu tình đã nổ ra ở Việt Nam về các vấn đề sinh kế và được giải quyết một cách thân thiện. Và, nếu chúng ta giới hạn phân tích của mình với bộ dữ liệu của Kerkvliet, hai thập niên bắt đầu vào năm 1995, có thể nhận ra sự chấp nhận chính thức ngày càng tăng đối với những lời chỉ trích và những ý tưởng không chính thống từ phía dân chúng. Kerkvliet gợi ra một lý do: nhiều quan chức Việt Nam đã kết luận rằng, đối xử nhẹ tay là cách tốt nhất cho một quốc gia phấn đấu phát triển công nghiệp và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Đó là một đánh giá hợp lý về giai đoạn Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng (2006-2015), một giai đoạn đồng thời bị hủy hoại bởi những quan hệ tham nhũng tràn lan, giữa những quan chức này và các nhóm lợi ích kinh tế. Và chắc chắn, lúc đó cũng như hiện nay, công dân nào có lòng nhiệt tình với dân chủ đã đưa họ đến chuyện kêu gọi thay đổi chế độ, hoặc âm mưu cùng với các phe phái “chống Cộng” ở nước ngoài, đều bị bắt giữ như thường lệ.
Như tôi đã viết cho Asia Sentinel rằng, vào cuối thập kỷ của Dũng, người ta có thể tưởng tượng một Việt Nam sẽ chấp nhận cho sự đa dạng, khuyến khích sự nở rộ của các tổ chức xã hội dân sự tự trị, và thậm chí có thể thử nghiệm các cuộc bầu cử có tranh đua ở cấp địa phương. Ba năm rưỡi sau, rõ ràng là cả Kerkvliet và tôi đều đánh giá thấp tiềm năng đẩy lùi trên trường đấu chính trị.
Đại hội 12 của Đảng Cộng sản hồi đầu năm 2016, là một bước ngoặt. Dũng nhắm thay ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư. Nhưng Trọng đã huy động một liên minh “ai cũng được, ngoại trừ Dũng” đã mang lại cho ông thêm một nhiệm kỳ với tư cách là người đứng đầu đảng và nhồi đầy Bộ Chính trị cùng BCH Trung ương đảng với các đồng minh và đàn em của ông.
Quyết tâm khôi phục lại quyền lực của đảng, Trọng đã tiến hành một chiến dịch chống tham nhũng không ngừng, trong bộ máy của đảng và nhà nước, nói chung là được hoan nghênh. Với ý định khôi phục lại tính trong sạch cách mạng, ông đã đẩy các đảng viên nổi bật, có suy nghĩ phóng khoáng, ra khỏi hàng ngũ đảng. Cũng nghi ngờ về ‘các quyền tự do tư sản’, Trọng và các đồng minh của ông đã thả lỏng cho lực lượng an ninh nội bộ của chế độ đàn áp các nhà bất đồng chính kiến thẳng thắn.
“The 88 Project” (Dự án 88), một tổ chức phi chính phủ theo dõi các vụ tống giam, báo cáo rằng, dưới sự lãnh đạo của Trọng, chế độ Hà Nội đang bỏ tù các nhà bất đồng chính kiến với tốc độ gấp đôi thời Dũng, và với án tù dài hạn hơn nhiều. Vùng cấm chỉ trích chế độ đã được mở rộng đáng kể. Thậm chí chỉ trò chuyện với bạn bè trên mạng xã hội về hy vọng sự thay đổi chế độ, đôi khi dẫn đến việc bắt giữ và trừng phạt.
Giống như chiến dịch chống tham nhũng, cuộc chiến chống lại những người có suy nghĩ phóng khoáng của Trọng không hề suy giảm. Tuy nhiên, ngược lẽ thường, “mối quan hệ đối thoại” giữa chế độ và công dân vẫn lành mạnh. Như trước đây, nhà nước độc đảng rất chú ý đến các bất bình của người dân đối với địa phương. Có lẽ thậm chí còn nhiều hơn trước, công dân tức giận về sự lạm quyền của chính quyền địa phương có thể lường trước sự can thiệp mang tính xây dựng của chính quyền cấp cao hơn. Tất nhiên, trừ khi đó là một tranh chấp biến thành sự chỉ trích chính Đảng Cộng sản.
Cuốn sách đáng tin cậy của TS Kerkvliet, phân tích các mối quan hệ công dân-chính quyền trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam. Viết một cuốn sách như thế đòi hỏi nhiều lựa chọn. Một nhà nghiên cứu có thể cày rộng và nông hoặc hẹp và sâu. “Lên tiếng ở Việt Nam” không giả vờ là toàn diện. Nghiên cứu của Kerkvliet dừng lại vào cuối năm 2015. Ông không giải thích nhiều về những than phiền rằng Hà Nội có xu hướng ve vuốt, thay vì đối đầu với Trung Quốc. Ông nói ít về biểu tình môi trường. Có rất ít tham chiếu tới các phương tiện truyền thông độc lập, vốn làm sinh động không gian mạng Việt Nam.
“Lên tiếng” là một lát cắt “Goldilocks”, đủ sâu, đủ dài và đủ rộng để hậu thuẫn cho các kết luận hợp lý về động lực của đối thoại giữa công dân và nhà nước ở Việt Nam. Cuốn sách gợi ra những hướng đi hiệu quả cho một thế hệ các nhà phân tích mới và cung cấp một khuôn khổ chắc chắn cho việc phân tích tiến vào cuộc đối thoại giữa đảng với dân. Nó có thể được coi như là một tài liệu tham khảo cơ bản cho những người theo dõi các vấn đề Việt Nam.
Ben Kerkvliet vẫn còn hy vọng về Việt Nam. Tôi cũng thế. Trước đây tôi đã sai (ví dụ, tôi đã gọi Đại hội Đảng lần thứ 12 là cho Dũng chứ không phải Trọng), nhưng tôi vẫn tin rằng sự thịnh vượng lâu dài của Việt Nam phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền biết học cách chào đón các sáng kiến trồi lên từ bên dưới. Thời gian sẽ trả lời điều đó rõ ràng hơn.
Sách “Lên tiếng ở Việt Nam do Nhà xuất bản Đại học Cornell phát hành. Sách dày 252 trang, bìa cứng. Giá: $49.95
© Copyright Tiếng Dân – Bản tiếng Việt
(baotiengdan.com)
Điểm sách “Lên tiếng ở Việt Nam” (Speaking Out in Vietnam’) |
Bìa sách “Lên tiếng ở Việt Nam” của GSTS Ben Kerkvliet mới xuất bản
Một sáng mùa Xuân năm 2015, những người dân Hà Nội thức dậy với tiếng loạt xoạt của cưa xích trên hai đại lộ của thủ đô. Các nguồn tin chính thức cho biết, cây cối chạy dọc theo hai con đường này đã già cỗi và bệnh tật. Nhưng rõ ràng là đa số chúng đều xanh tốt.
Cho dù ở Việt Nam hay ở nơi nào khác, các quan chức có quyền làm như vậy thường là những người tham ô hàng hóa công, trong trường hợp này là loại gỗ lớn tuổi xứ nhiệt đới. Phần bất thường là công dân Hà Nội đã đối mặt, làm chính quyền thua cuộc. Phối hợp với các phương tiện truyền thông xã hội, không bị cảnh sát chống bạo động triển khai để duy trì trật tự, hàng ngàn người đã xuống đường để bảo vệ 5000 cây cối, đã được chỉ định để chặt đốn. Trong khoảng một ngày, nhiều bộ trưởng đã lên án vụ chặt đốn cây này. Chính quyền thành phố Hà Nội chuyển sang thái độ giảm bớt tai tiếng.
Gần như cùng lúc, tại các xưởng của một hãng giày khổng lồ ở Thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 90.000 công nhân đã đình công. Họ rời bỏ máy may để phản đối một đạo luật mới, cho phép chính phủ giữ lại các khoản đóng góp quỹ hưu trí cho đến khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu. Hầu hết những người đình công là phụ nữ ở độ tuổi trên dưới 20, điển hình là những người tiết kiệm, với ý định lúc về hưu sẽ có chút vốn để làm ăn hoặc xây nhà.
Sự việc diễn ra trong nhiều ngày và không có kết quả, chính quyền thành phố đã triển khai cảnh sát và kêu gọi những người đình công quay trở lại làm việc. Sau đó, chính quyền trung ương vào cuộc, không phải để đè bẹp cuộc đình công trái phép mà để đồng ý rằng những người đình công đã đúng. Chính quyền Hà Nội đề xuất, khi không còn làm việc, công dân có thể chọn cách nhận một lần một khoản tiền cho các khoản chi trả an sinh xã hội của họ, hoặc nhận tiền lãi hàng tháng của khoản tiền đó dưới sự quản lý của chính phủ. Người đình công đã quay lại làm công việc lắp ráp giày dép cho hãng Nike, Adidas và các hãng nổi tiếng khác. Một tháng sau, Quốc hội Việt Nam đã xác nhận thỏa thuận này.
Những sự kiện như thế này tạo nên ít nhiều hoài nghi khi Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và các tổ chức phi chính phủ khác mô tả Việt Nam là địa ngục trần gian. Chúng là bằng chứng cho bức chân dung khác của Việt Nam như là một “nhà nước đáp ứng – đàn áp” của GSTS Ben Kerkvliet. Trong hai thập niên, ông đã phân tích những người Việt bình thường gây ra sự ồn ào như thế nào và khi nào, và nhà nước độc đảng làm gì với việc đó. Bây giờ ông Kerkvliet đã kết hợp tất cả các sự kiện lại với nhau trong cuốn sách “Lên tiếng ở Việt Nam”, một cuốn sách rất dễ đọc, vừa được Nhà xuất bản Đại học Cornell phát hành.
Có hai loại “chính trị” ở Việt Nam.
Đầu tiên, có những tranh luận giữa các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khoảng bốn triệu đảng viên cộng sản là nhân viên chính phủ, giành quyền quyết định mọi thứ cho hơn 90 triệu dân. Dù thời gian đã làm xói mòn hào quang cách mạng và các quan hệ tham nhũng đã làm sạt lở đạo đức của họ, nhưng họ không ngừng tranh luận về những gì đảng phải làm để duy trì quyền đưa ra quyết định thay cho hơn 90 triệu người Việt Nam khác.
Thứ hai, có một lĩnh vực mà ông Kerkvliet đã tập trung vào, điều mà ông gọi là ‘phê bình chính trị công cộng’, ‘mối quan hệ đối thoại’ giữa chế độ và các công dân bất bình. Những vụ lộn xộn mà ông phân tích chủ yếu là tại địa phương: công nhân đình công để nhận được lương và điều kiện làm việc tốt hơn với những người quản lý nhà máy là nước ngoài, nông dân chống lại việc giao đất đai của họ với giá đền bù rẻ mạt, hoặc những người sinh sống bị ô nhiễm công nghiệp gây ảnh hưởng.
Kerkvliet lập luận, khi một số công dân này lên tiếng, “phản ứng của chính quyền nhà nước độc đảng thường phối hợp giữa sự đáp ứng với sự khoan dung và sự đàn áp”. Sự đàn áp thường là biện pháp sau cùng, khi một nhóm nhỏ còn lại vẫn từ chối sự thỏa thuận của đại diện nhà nước đề nghị.
Tiến sĩ Kerkvliet hậu thuẫn cho kết luận của mình với một đống chú thích. Các chú thích đó là để thuyết phục các chuyên gia, nhưng sẽ không phạm tới niềm vui của một số độc giả bình thường trong việc tìm kiếm một cuốn sách học thuật, viết về một chủ đề quan trọng mà không có nhiều biệt ngữ hay vẻ thông thái giả tạo.
Cuộc khảo sát của Kerkvliet lật đổ các báo cáo bi quan không ngừng của một số tổ chức phi chính phủ chuyên về cổ vũ quyền con người. Ông cho chúng ta thấy rằng, vô số cuộc biểu tình đã nổ ra ở Việt Nam về các vấn đề sinh kế và được giải quyết một cách thân thiện. Và, nếu chúng ta giới hạn phân tích của mình với bộ dữ liệu của Kerkvliet, hai thập niên bắt đầu vào năm 1995, có thể nhận ra sự chấp nhận chính thức ngày càng tăng đối với những lời chỉ trích và những ý tưởng không chính thống từ phía dân chúng. Kerkvliet gợi ra một lý do: nhiều quan chức Việt Nam đã kết luận rằng, đối xử nhẹ tay là cách tốt nhất cho một quốc gia phấn đấu phát triển công nghiệp và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Đó là một đánh giá hợp lý về giai đoạn Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng (2006-2015), một giai đoạn đồng thời bị hủy hoại bởi những quan hệ tham nhũng tràn lan, giữa những quan chức này và các nhóm lợi ích kinh tế. Và chắc chắn, lúc đó cũng như hiện nay, công dân nào có lòng nhiệt tình với dân chủ đã đưa họ đến chuyện kêu gọi thay đổi chế độ, hoặc âm mưu cùng với các phe phái “chống Cộng” ở nước ngoài, đều bị bắt giữ như thường lệ.
Như tôi đã viết cho Asia Sentinel rằng, vào cuối thập kỷ của Dũng, người ta có thể tưởng tượng một Việt Nam sẽ chấp nhận cho sự đa dạng, khuyến khích sự nở rộ của các tổ chức xã hội dân sự tự trị, và thậm chí có thể thử nghiệm các cuộc bầu cử có tranh đua ở cấp địa phương. Ba năm rưỡi sau, rõ ràng là cả Kerkvliet và tôi đều đánh giá thấp tiềm năng đẩy lùi trên trường đấu chính trị.
Đại hội 12 của Đảng Cộng sản hồi đầu năm 2016, là một bước ngoặt. Dũng nhắm thay ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư. Nhưng Trọng đã huy động một liên minh “ai cũng được, ngoại trừ Dũng” đã mang lại cho ông thêm một nhiệm kỳ với tư cách là người đứng đầu đảng và nhồi đầy Bộ Chính trị cùng BCH Trung ương đảng với các đồng minh và đàn em của ông.
Quyết tâm khôi phục lại quyền lực của đảng, Trọng đã tiến hành một chiến dịch chống tham nhũng không ngừng, trong bộ máy của đảng và nhà nước, nói chung là được hoan nghênh. Với ý định khôi phục lại tính trong sạch cách mạng, ông đã đẩy các đảng viên nổi bật, có suy nghĩ phóng khoáng, ra khỏi hàng ngũ đảng. Cũng nghi ngờ về ‘các quyền tự do tư sản’, Trọng và các đồng minh của ông đã thả lỏng cho lực lượng an ninh nội bộ của chế độ đàn áp các nhà bất đồng chính kiến thẳng thắn.
“The 88 Project” (Dự án 88), một tổ chức phi chính phủ theo dõi các vụ tống giam, báo cáo rằng, dưới sự lãnh đạo của Trọng, chế độ Hà Nội đang bỏ tù các nhà bất đồng chính kiến với tốc độ gấp đôi thời Dũng, và với án tù dài hạn hơn nhiều. Vùng cấm chỉ trích chế độ đã được mở rộng đáng kể. Thậm chí chỉ trò chuyện với bạn bè trên mạng xã hội về hy vọng sự thay đổi chế độ, đôi khi dẫn đến việc bắt giữ và trừng phạt.
Giống như chiến dịch chống tham nhũng, cuộc chiến chống lại những người có suy nghĩ phóng khoáng của Trọng không hề suy giảm. Tuy nhiên, ngược lẽ thường, “mối quan hệ đối thoại” giữa chế độ và công dân vẫn lành mạnh. Như trước đây, nhà nước độc đảng rất chú ý đến các bất bình của người dân đối với địa phương. Có lẽ thậm chí còn nhiều hơn trước, công dân tức giận về sự lạm quyền của chính quyền địa phương có thể lường trước sự can thiệp mang tính xây dựng của chính quyền cấp cao hơn. Tất nhiên, trừ khi đó là một tranh chấp biến thành sự chỉ trích chính Đảng Cộng sản.
Cuốn sách đáng tin cậy của TS Kerkvliet, phân tích các mối quan hệ công dân-chính quyền trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam. Viết một cuốn sách như thế đòi hỏi nhiều lựa chọn. Một nhà nghiên cứu có thể cày rộng và nông hoặc hẹp và sâu. “Lên tiếng ở Việt Nam” không giả vờ là toàn diện. Nghiên cứu của Kerkvliet dừng lại vào cuối năm 2015. Ông không giải thích nhiều về những than phiền rằng Hà Nội có xu hướng ve vuốt, thay vì đối đầu với Trung Quốc. Ông nói ít về biểu tình môi trường. Có rất ít tham chiếu tới các phương tiện truyền thông độc lập, vốn làm sinh động không gian mạng Việt Nam.
“Lên tiếng” là một lát cắt “Goldilocks”, đủ sâu, đủ dài và đủ rộng để hậu thuẫn cho các kết luận hợp lý về động lực của đối thoại giữa công dân và nhà nước ở Việt Nam. Cuốn sách gợi ra những hướng đi hiệu quả cho một thế hệ các nhà phân tích mới và cung cấp một khuôn khổ chắc chắn cho việc phân tích tiến vào cuộc đối thoại giữa đảng với dân. Nó có thể được coi như là một tài liệu tham khảo cơ bản cho những người theo dõi các vấn đề Việt Nam.
Ben Kerkvliet vẫn còn hy vọng về Việt Nam. Tôi cũng thế. Trước đây tôi đã sai (ví dụ, tôi đã gọi Đại hội Đảng lần thứ 12 là cho Dũng chứ không phải Trọng), nhưng tôi vẫn tin rằng sự thịnh vượng lâu dài của Việt Nam phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền biết học cách chào đón các sáng kiến trồi lên từ bên dưới. Thời gian sẽ trả lời điều đó rõ ràng hơn.
Sách “Lên tiếng ở Việt Nam do Nhà xuất bản Đại học Cornell phát hành. Sách dày 252 trang, bìa cứng. Giá: $49.95
© Copyright Tiếng Dân – Bản tiếng Việt
(baotiengdan.com)
Không có nhận xét nào