Trong 7 dự án lớn của 5 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài thống kê có tới 5 dự án của các nhà đầu tư Trung Quốc.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/5, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 16,74 tỷ USD, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm 2018, đạt kỷ lục về giá trị vốn đầu tư đăng ký của 5 tháng trong vòng 4 năm trở lại đây.
Trong 88 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD (trong đó có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội), chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư.
Các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đại lục đầu tư 2,02 tỷ USD vào Việt Nam, còn các nhà đầu tư Đài Loan (thuộc Trung Quốc) cũng rót gần 575 triệu USD. Tính chung lại, lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc thời gian qua đạt hơn 7,6 tỷ USD.
Rõ ràng cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã tác động lớn đến sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư Trung Quốc. Sau một thời gian dài chỉ đứng thứ ba hoặc thứ tư tại Việt Nam, vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã vượt qua các nhà đầu tư lớn đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Trong 7 dự án lớn của 5 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài thống kê có tới 5 dự án của các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc.
Đó là: Dự án góp vốn, mua cổ phần của Beerco Limited (Hồng Kông) vào công ty TNHH Vietnam Beverage, giá trị vốn góp là 3,85 tỷ USD với mục tiêu chính là sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tại Hà Nội.
Dự án chế tạo lốp xe Radian toàn thép ACTR (Trung Quốc), tổng vốn đầu tư đăng ký 280 triệu USD đầu tư tại Tây Ninh với mục tiêu sản xuất lốp xe toàn thép TBR.
Dự án Nhà máy chế tạo thiết bị điện tử, phương tiện thiết bị mạng và các sản phẩm âm thanh đa phương tiện, tổng vốn đầu tư đăng ký 260 triệu USD do Goertek (Hongkong) co., Limited đầu tư tại Bắc Ninh.
Dự án Công ty TNHH lốp Advance Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký 214,4 triệu USD do Guizhou Advance Type Investment co.,ltd (Trung Quốc) đầu tư với mục tiêu sản xuất, tiêu thụ lốp, cao su và các sản phẩm liên quan tại Tiền Giang.
Dự án Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam (Hồng Kông)với mục tiêu thiết kế, lắp ráp và sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Nội điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 200 triệu USD.
Trong cơ cấu vốn đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp Hồng Kông dành 3/4 lượng vốn để đầu tư mua bán cổ phần, mua lại các doanh nghiệp, số vốn đầu tư mới và tăng thêm vào các dự án cũ của nhà đầu tư này chỉ chiếm chưa đầy 1/4.
Điều này cho thấy, nhà đầu tư Trung Quốc vẫn chủ yếu đầu tư vào Việt Nam theo dạng thụ động như hợp tác góp vốn lấy lợi nhuận, mua bán doanh nghiệp cũ, doanh nghiệp lên sàn để chờ đợi thời cơ.
Theo các chuyên gia, lượng vốn cấp mới, tăng thêm của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu vào các dự án may mặc, thiết bị điện, bất động sản và xây dựng, chế biến chế tạo có công nghệ thấp, số vốn nhỏ.
Đáng lưu ý, nỗi lo về mặt trái của nguồn vốn đầu tư Trung Quốc vẫn còn đó, Việt Nam đã có nhiều bài học mà dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông là điển hình và nhiều chuyên gia đã liên tục cảnh báo về điều này.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trả lời phỏng vấn báo chí chỉ ra rằng: "Hiện nay, cái mà Việt Nam thiếu không phải là vốn, trong thời gian vừa qua rất nhiều nhưng chúng ta sử dụng rất kém, những cái đau của dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông có thế thôi mà gần lên đến 900 triệu USD. Chất lượng cũng đặt ra câu hỏi, nhiều người còn nói đùa có làm xong cũng không dám đi.
Kéo dài bao nhiêu năm như vậy, bài học quá rõ, vay ODA hay gì thì họ cũng chủ động, tiến độ, thiết bị cũng của họ. Tiến độ kéo dài ra bao lâu từ đó đội vốn gấp 3 lần so với trước. Tất cả cái đó đặt ra nhiều vấn đề.
Các điều kiện ràng buộc vô lý của họ cũng là đấu thầu nhưng lại chọn giá rẻ, ngoài giá rẻ không biết có chuyện đi đêm hay không? Tôi rất nghi ngờ điều đó".
Đồng quan điểm, PGS.TS Lê Cao Đoàn, nguyên cán bộ Viện Kinh tế Việt Nam lưu ý Việt Nam phải hết sức tỉnh táo.
Ông cho biết, thu hút FDI hiện nay không còn như cách đây 20 năm. Thời đó, Việt Nam rất cần nhiều vốn, bất chấp chất lượng đầu tư, nhưng giai đoạn ngày nay không phải như vậy.
"Nước ngoài bỏ đồng vốn ra đầu tư thì họ dùng chính vốn đi vay của Việt Nam, vậy ai thiệt ở đây? Đó là công nghiệp của Việt Nam thiệt, doanh nghiệp Việt Nam thiệt, mà như vậy thì doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được, nội lực của nền kinh tế Việt Nam sẽ kém đi.
(...) Đối với mỗi nền kinh tế, vốn là một phần tất yếu và là một yếu tố rất quan trọng. Muốn tăng trưởng thì phải tăng vốn, vấn đề quan trọng và căn bản là phải quan tâm đến sức sản xuất của vốn đó, chất lượng hoạt động kinh doanh của vốn đầu tư đó. Chất lượng ấy mới đem lại sự cải tổ, cách mạng cho phương thức sản xuất của đất nước nhận vốn, chứ không phải vấn đề lượng vốn. Mà những yếu tố trên lại rất kém ở đầu tư của Trung Quốc.
Một cách thẳng thắn, vốn Trung Quốc không đem lại sự cách mạng nào cho phương thức sản xuất của nước nhận vốn, thậm chí còn làm yếu đi", vị chuyên gia cảnh báo.
Là đại biểu Quốc hội, ông Lê Thanh Vân (đoàn Cà Mau), Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam không kỳ thị, phân biệt nguồn vốn Trung Quốc và việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài phải trên cơ sở bình đẳng. Vấn đề là phải kiểm soát năng lực của các nhà đầu tư và tính minh bạch của các nguồn lực huy động từ chính sách vay.
Vị đại biểu đề nghị phải củng cố lại hàng rào để sàng lọc các nhà đầu tư, quan trọng nhất là phải xác định rõ trách nhiệm của những người có thẩm quyền liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu.
"Nếu như chúng ta xử lý nghiêm minh, truy cứu bất cứ lúc nào, không có điểm hạ cánh an toàn thì trách nhiệm của họ sẽ được nâng cao lên", ông nói.
Trong nhóm 5 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, Hàn Quốc và Singapore đứng ở vị trí thứ 2 và thứ 3 với số vốn lần lượt là 2,6 tỷ USD và 2,08 tỷ USD; nhà đầu tư Nhật Bản đứng vị trí thứ 5 với số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD.
Minh Thái
Trung Quốc dồn dập rót vốn vào Việt Nam |
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/5, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 16,74 tỷ USD, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm 2018, đạt kỷ lục về giá trị vốn đầu tư đăng ký của 5 tháng trong vòng 4 năm trở lại đây.
Trong 88 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD (trong đó có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội), chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư.
Các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đại lục đầu tư 2,02 tỷ USD vào Việt Nam, còn các nhà đầu tư Đài Loan (thuộc Trung Quốc) cũng rót gần 575 triệu USD. Tính chung lại, lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc thời gian qua đạt hơn 7,6 tỷ USD.
Rõ ràng cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã tác động lớn đến sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư Trung Quốc. Sau một thời gian dài chỉ đứng thứ ba hoặc thứ tư tại Việt Nam, vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã vượt qua các nhà đầu tư lớn đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Trong 7 dự án lớn của 5 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài thống kê có tới 5 dự án của các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc.
Đó là: Dự án góp vốn, mua cổ phần của Beerco Limited (Hồng Kông) vào công ty TNHH Vietnam Beverage, giá trị vốn góp là 3,85 tỷ USD với mục tiêu chính là sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tại Hà Nội.
Dự án chế tạo lốp xe Radian toàn thép ACTR (Trung Quốc), tổng vốn đầu tư đăng ký 280 triệu USD đầu tư tại Tây Ninh với mục tiêu sản xuất lốp xe toàn thép TBR.
Dự án Nhà máy chế tạo thiết bị điện tử, phương tiện thiết bị mạng và các sản phẩm âm thanh đa phương tiện, tổng vốn đầu tư đăng ký 260 triệu USD do Goertek (Hongkong) co., Limited đầu tư tại Bắc Ninh.
Dự án Công ty TNHH lốp Advance Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký 214,4 triệu USD do Guizhou Advance Type Investment co.,ltd (Trung Quốc) đầu tư với mục tiêu sản xuất, tiêu thụ lốp, cao su và các sản phẩm liên quan tại Tiền Giang.
Dự án Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam (Hồng Kông)với mục tiêu thiết kế, lắp ráp và sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Nội điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 200 triệu USD.
Trong cơ cấu vốn đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp Hồng Kông dành 3/4 lượng vốn để đầu tư mua bán cổ phần, mua lại các doanh nghiệp, số vốn đầu tư mới và tăng thêm vào các dự án cũ của nhà đầu tư này chỉ chiếm chưa đầy 1/4.
Điều này cho thấy, nhà đầu tư Trung Quốc vẫn chủ yếu đầu tư vào Việt Nam theo dạng thụ động như hợp tác góp vốn lấy lợi nhuận, mua bán doanh nghiệp cũ, doanh nghiệp lên sàn để chờ đợi thời cơ.
Theo các chuyên gia, lượng vốn cấp mới, tăng thêm của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu vào các dự án may mặc, thiết bị điện, bất động sản và xây dựng, chế biến chế tạo có công nghệ thấp, số vốn nhỏ.
Đáng lưu ý, nỗi lo về mặt trái của nguồn vốn đầu tư Trung Quốc vẫn còn đó, Việt Nam đã có nhiều bài học mà dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông là điển hình và nhiều chuyên gia đã liên tục cảnh báo về điều này.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trả lời phỏng vấn báo chí chỉ ra rằng: "Hiện nay, cái mà Việt Nam thiếu không phải là vốn, trong thời gian vừa qua rất nhiều nhưng chúng ta sử dụng rất kém, những cái đau của dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông có thế thôi mà gần lên đến 900 triệu USD. Chất lượng cũng đặt ra câu hỏi, nhiều người còn nói đùa có làm xong cũng không dám đi.
Kéo dài bao nhiêu năm như vậy, bài học quá rõ, vay ODA hay gì thì họ cũng chủ động, tiến độ, thiết bị cũng của họ. Tiến độ kéo dài ra bao lâu từ đó đội vốn gấp 3 lần so với trước. Tất cả cái đó đặt ra nhiều vấn đề.
Các điều kiện ràng buộc vô lý của họ cũng là đấu thầu nhưng lại chọn giá rẻ, ngoài giá rẻ không biết có chuyện đi đêm hay không? Tôi rất nghi ngờ điều đó".
Đồng quan điểm, PGS.TS Lê Cao Đoàn, nguyên cán bộ Viện Kinh tế Việt Nam lưu ý Việt Nam phải hết sức tỉnh táo.
Ông cho biết, thu hút FDI hiện nay không còn như cách đây 20 năm. Thời đó, Việt Nam rất cần nhiều vốn, bất chấp chất lượng đầu tư, nhưng giai đoạn ngày nay không phải như vậy.
"Nước ngoài bỏ đồng vốn ra đầu tư thì họ dùng chính vốn đi vay của Việt Nam, vậy ai thiệt ở đây? Đó là công nghiệp của Việt Nam thiệt, doanh nghiệp Việt Nam thiệt, mà như vậy thì doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được, nội lực của nền kinh tế Việt Nam sẽ kém đi.
(...) Đối với mỗi nền kinh tế, vốn là một phần tất yếu và là một yếu tố rất quan trọng. Muốn tăng trưởng thì phải tăng vốn, vấn đề quan trọng và căn bản là phải quan tâm đến sức sản xuất của vốn đó, chất lượng hoạt động kinh doanh của vốn đầu tư đó. Chất lượng ấy mới đem lại sự cải tổ, cách mạng cho phương thức sản xuất của đất nước nhận vốn, chứ không phải vấn đề lượng vốn. Mà những yếu tố trên lại rất kém ở đầu tư của Trung Quốc.
Một cách thẳng thắn, vốn Trung Quốc không đem lại sự cách mạng nào cho phương thức sản xuất của nước nhận vốn, thậm chí còn làm yếu đi", vị chuyên gia cảnh báo.
Là đại biểu Quốc hội, ông Lê Thanh Vân (đoàn Cà Mau), Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam không kỳ thị, phân biệt nguồn vốn Trung Quốc và việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài phải trên cơ sở bình đẳng. Vấn đề là phải kiểm soát năng lực của các nhà đầu tư và tính minh bạch của các nguồn lực huy động từ chính sách vay.
Vị đại biểu đề nghị phải củng cố lại hàng rào để sàng lọc các nhà đầu tư, quan trọng nhất là phải xác định rõ trách nhiệm của những người có thẩm quyền liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu.
"Nếu như chúng ta xử lý nghiêm minh, truy cứu bất cứ lúc nào, không có điểm hạ cánh an toàn thì trách nhiệm của họ sẽ được nâng cao lên", ông nói.
Trong nhóm 5 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, Hàn Quốc và Singapore đứng ở vị trí thứ 2 và thứ 3 với số vốn lần lượt là 2,6 tỷ USD và 2,08 tỷ USD; nhà đầu tư Nhật Bản đứng vị trí thứ 5 với số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD.
Minh Thái
(baodatviet.vn)
Không có nhận xét nào