Thấm thoát mà đã 44 năm (1975-2019),
cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã chấm dứt nhanh gọn, phi lý và
bất ngờ cho cả hai bên nội thù tham chiến, sau 21 năm diễn ra khốc liệt
(1954-1975). Thế nhưng theo phân định của chúng tôi, đó mới chỉ là sự
kết thúc một giai đoạn của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt
Nam kéo dài nhiều thập niên qua. Cuộc nội chiến ấy vẫn tiếp diễn từ sau
ngày 30-4-1975 đến nay và vẫn đang tiếp tục, là vì cuộc chiến ấy vẫn
chưa phân thắng bại theo nghĩa chưa bên nào thành đạt mục tiêu tối hậu
của mình: Việt cộng chưa thành đạt mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội; Việt quốc chưa thành đạt mụ ctieâu dân chủ hóa đất nước.
Và vì vậy hàng năm cứ đến ngày 30-4, bên “Việt cộng” (những người Việt
Nam cộng sản) thì ăn mừng như một “ ngày đại thắng”; còn bên “Việt quốc”
(những người Việt Nam quốc gia ) thì tưởng niệm như một “ngày quốc hận”
và coi cả Tháng 4 là “Tháng Tư Đen”. Vì sao ?
Một buổi tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Westminster, California. |
I - Ý NGHĨA TỪ NGỮ “NGÀY QUỐC HẬN” VÀ “THÁNG TƯ ĐEN”
Chúng
tôi không biết cá nhân hay đoàn thể Việt quốc nào ở hải ngoại lần đầu
tiên đã dùng từ ngữ “Quốc hận” để gọi ngày 30-4-1975 và “Tháng Tư Đen”
để chỉ tháng 4-1975 . Nhưng điều đó không quan trọng bằng ý nghĩa của từ
ngữ này đã nói lên được điều gì?
Theo
suy luận của chúng tôi thì cụm từ “Ngày Quốc hận 30-4” diễn tả nỗi đau
uất hận của những người Việt quốc gia từng sống ở Miền Nam Việt Nam
trước 30-4-1975, dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa. Vì ngày
ấy đánh dấu chế độ tự do dân chủ non trẻ ở Miền Nam Việt Nam bị cưỡng
tử, khiến cho gần 20 triệu dân quân Miền Nam Việt Nam lúc đó mất hẳn
vùng đất tự do, rơi vào ách thống trị chế độ độc tài toàn trị Việt cộng.
Chế
độ Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử, có nghĩa là đã bị bắt buộc phải “chết
bất đắc kỳ tử”, khi mà chế độ ấy cơ thể như còn khỏe mạnh, không thể
chết được hay ít ra chưa thể chết ngay được, còn có thể cứu vãn được
tình hình để hồi phục và tồn tại. Bị cưỡng tử vì chính quyền, quân, dân
của chế độ có chính nghĩa ấy vẫn còn thừa khả năng chiến đấu để tự tồn,
trước một đối phương Việt cộng phi chính nghĩa, ngụy dân tộc lúc đó đang
ở thế cùng lực kiệt, thực sự không có khả năng để có được một chiến
thắng như “trên trời rớt xuống” nhanh như vậy.
Thế
nhưng, đối phương ấy đã được các thế lực khuynh đảo quốc tế sắp xếp cho
đóng vai “Bên thắng cuộc”, trong một cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài
21 năm (1954-1975), chỉ vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới
của các cường quốc cực. Thật là điều bất công, phi lý khi họ đã cho phe
“Tà cộng” thắng “Chính quốc”. Quốc tế và đồng minh Hoa Kỳ đã làm ngơ bỏ
mặc Việt Nam Cộng Hòa, trước hành động xâm lăng của Việt cộng, vi phạm
trắng trợn Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình
choViệt Nam ngày 27-1-1973, dù có những cam kết đa phương và bảo đảm
quốc tế.
Như
thế bảo sao người Việt quốc gia ở Miền Nam Việt Nam không uất hận.
Chính vì vậy ngày 30-4-1975 đã là “Ngày Quốc Hận” và Tháng Tư năm 1975
đã là “Tháng Tư Đen” đối với người Việt quốc gia ở hải ngoại cũng như
trong nước. Bởi vì ngày ấy, tháng ấy đã diễn ra những sự kiện đen tối
cho Việt quốc và là ngày tháng khởi điểm đưa toàn cõi Việt Nam vào một
giai đoạn “Đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời cận đại”:
Giai đoạn cộng sản hóa cả nước!
Vậy thì:
II - VIỆT QUỐC HẬN AI, HẬN CÁI GÌ VÀ HẬN ĐỂ LÀM GÌ?
1 - Trước hết Việt quốc hận ai và hận cái gì?
Về
mặt khách quan, Việt quốc hận đối phương Việt cộng đã đành, mà còn hận
cả người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, nay đã và đang trở thành là đối
tác làm ăn với cựu thù Việt cộng từ sau 1995, bãi bỏ cấm vận, thiết lập
quan hệ ngoại giao với nhà cầm quyền Việt cộng..
Về
mặt chủ quan, người Việt quốc gia hận những người lãnh đạo hàng đầu về
chính trị cũng như quân sự có trách nhiệm trước sự sụp đổ nhanh chóng
chế độ Việt Nam Cộng Hòa và có thể hận với chính mình nữa.
Thật
vậy, người Việt quốc gia ở hải ngoại 44 năm qua và có thể cho đến lúc
chết vẫn mang trong lòng mối hận người, hận mình, với tính chất và cường
độ hận khác nhau.
-
Mối hận hàng đầu là đối với đối phương Việt cộng. Với đối tượng này,
tính chất và cường độ mối hận phải được diễn đạt bằng ngôn từ “căm hận”
hay “căm thù”. Căm hận hay căm thù Việt cộng là điều tất nhiên, vì là
đối phương, kẻ thù chính trong một cuộc chiến phi nghĩa do họ phát động,
tiến hành đã gây nhiều hận thù trong chiến tranh. Và sau cuộc chiến
tiếp tục gây nhiều thù hận vì đã xích hóa nhân dân cả nước dưới chế độ
độc tài cộng sản hà khắc, tàn bạo, phi nhân.
Trong
chế độ này, Việt cộng đã sử dụng “Chuyên chính vô sản” cướp đoạt mọi
tài sản của nhân dân Miền Nam (bị miệt thị là “Dân ngụy”), đầy ải hàng
trăm ngàn quân, dân, cán chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong các trại
tù “Tập trung cải tạo”. Trong khi cha, mẹ, vợ con họ ở nhà bị Việt cộng
phân biệt đối xử như những công dân hạng hai, bị bạc đãi, xua đuổi khỏi
các thành thị hay các vùng đất mầu mỡ, đẩy đến các vùng kinh tế mới nơi
đèo heo hút gió, đồi núi khô cằn hay bùn lầy nước đọng; phải bỏ lại tất
cả nhà cửa, đất đai tài sản và các tiện nghi khác nơi các thành thị hay
nông thôn, nhường lại tất cả cho “Bên thắng cuộc” mà trên hết và trước
hết là cho giai cấp mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức có
quyền thụ hưởng.
Không
căm hận và thù hận sao được, khi khởi đi từ Tháng Tư Đen 1975, Việt
cộng đã đưa cả đất nước và dân tộc vào một thời kỳ bi thảm và đen tối
nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Bởi vì từ đó, Việt cộng đã phá nát
tài sản quốc gia, của nổi cũng như của chìm, nhượng đất, nhượng biển cho
ngoại bang, làm băng hoại toàn diện đất nước về vật chất cũng như tinh
thần. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nền đạo đức luân
lý xã hội cổ truyền đã bị đảo lộn, phá hủy, thay vào đó cái gọi là “Nền
đạo đức cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa” vô luân, vô thần. Mọi
tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đều bị bài bác và tìm cách tiêu diệt
qua các hành động chống phá các giáo hội và đàn áp, khủng bố các chức
sắc giáo hội và tín đồ dưới nhiều hình thức tinh vi, thâm độc.Mọi tầng
lớp nhân dân bị bác đoạt các dân quyền và nhân quyền cơ bản. Đời sống
của quảng đại quần chúng nhân dân bị đói khổ lầm than và sự cách biệt
giầu nghèo giữa thiểu số giai cấp thống trị cán bộ đảng viên cộng sản
với tuyệt đại đa số nhân dân ngày một sâu sắc. Hệ quả là sau nhiều năm
cầm quyền, Việt cộng đã làm tan hoang đất nước,lòng người ly tán, hận
thù và đói nghèo, di hại toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ Việt Nam
tương lai phải gánh chịu… Nếu như vào năm 1995, không được cựu thù “Đế
quốc Mỹ” mở rộng vòng tay tạo cơ hội thoát hiểm để có bộ mặt “phồn vinh”
như hôm nay. (Xin “Bên thắng cuộc” Việt cộng đừng vì tự ái mà vội phủ
nhận và ngụy biện về thực tế này)
Hận kẻ nội thù Việt cộng là như thế, còn đối với người bạn Hoa Kỳ đồng minh năm xưa thì sao, Việt quốc hận gì?
Tất
nhiên là có hận, nhưng mối hận có khác về tính chất và cường độ được
diễn đạt bằng ngôn từ “Oán hận” hay “Uất hận”. Nó tương tự như mối hận
của một người tình bị phụ bạc sau những năm chăn gối mặn nồng tưởng như
chung thủy. Vì sao hận và hận cái gì?
Câu
trả lời chi tiết thì đã được nhiều người đưa ra, còn câu trả lời tổng
quát thì đã được Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống dân cử cuối cùng
nền Đệ nhị chế độ Việt Nam Cộng Hòa đưa ra trong bài diễn văn từ nhiệm
ngày 21-4-1975 trước khi kịp “lưu vong”, rằng “Họ đã bỏ rơi chúng tôi.
Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Thật vậy, họ đã phản bội
chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với một
nước đồng minh nhỏ…” Đây là những lời tố cáo muộn màng của người lãnh
đạo cao nhất chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 9 năm cầm quyền, chẳng
thay đổi được gì, chỉ bầy tỏ nỗi uất hận của cá nhân và cũng là mối uất
hận chung của quân, dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trước sự “phản bội”
của Hoa Kỳ.
Sự
bầy tỏ uất hận trên đây của cố Tổng Thống Thiệu có tính đổ lỗi cho Hoa
Kỳ, song vẫn không tránh khỏi mối hận thứ ba của người Việt quốc gia đối
với cá nhân ông Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Vì
chính họ đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm sụp đổ chế độ
Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30-4-1975, đã tạo tiền đề cho ngoại bang để
cho Việt cộng đóng vai “Bên thắng cuộc” trong cuộc chiến, dù chỉ là
chiến thắng giả tạo (Chiến thắng biểu kiến như chúng tôi phân tích trình
bầy trong tài liệu nghiên cứu lý luận“Việt Nam Trong Thế Chiến Lược
Quốc Tế Mới”) song thực tế đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, toàn
diện và di hại lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước Việt Nam, như
mọi người đã biết.
Oán
hận và uất hận, vì với trách nhiệm lãnh đạo, họ đã để mất Miền Nam Việt
Nam vào tay Việt cộng một cách dễ dàng, chóng vánh và hầu hết trong số
họ đã kịp cao bay xa chạy di tản ra hải ngoại trước khi chế độ Việt Nam
Cộng Hòa bị cưỡng tử, để lại sau lưng hàng trăm ngàn quân, dân, cán
chính cho đối phương Việt cộng hành hạ, sỉ nhục trong các trại tù “Cải
tạo” nhiều năm sau đó. Nhất là đã đẩy gần 20 triệu nhân dân Miền Nam Tự
do rơi vào ách thống trị cộng sản độc tài và độc ác, cùng chia khổ và bị
xích hóa với nhân dân Miền Bắc trong gông cùm của cái gọi là “Cộng Hòa
Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam” kéo dài ít nhất là hơn 20 năm (1975-1995) và
sau đó cho đến hôm nay (2019) Việt Nam đã có nhiều đổi thay theo hướng
tích cực khởi đi từ 1995, khi Hoa kỳ bãi bỏ cấm vận, tạo thuận lợi cho
chính sách “Mở cửa”đưa Việt nam từng bước hội nhập với thế giới văn
minh.
Trên đây là những mối “Hận người”, còn với “chính mình” thì sao?
Có
lẽ người Việt quốc gia cũng phải xét mình để tự “hận mình”, song với
tính chất và cường độ có khác, được diễn tả bằng từ “ân hận”. Tùy vị trí
trong xã hội Miền Nam, trong tương quan với cuộc chiến để có “mối ân
hận khác nhau”. Ân hận rằng nếu như ngày ấy, ở vị trí ấy mình nên làm
thế này, không nên làm thế kia thì có thể đã góp phần xây dựng và củng
cố chế độ, chính quyền, quân đội, xã hội ở Miền Nam ngày một vững mạnh,
để không thể xẩy ra “Ngày Quốc Hận 30-4-1975”, ngày cuối cùng của một
“Tháng Tư Đen”?
Chẳng
hạn là người chỉ huy lãnh đạo các cấp chính quyền, quân đội “ân hận” vì
đã không quan tâm đúng mức và dồn hết tâm lực cho cuộc chiến chống cộng
bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và phần đất Miền Nam tự do. “Ân
hận” vì đã lợi dụng vị trí lãnh đạo, chức quyền mua quan bán chức, nuôi
dưỡng lính ma lính kiểng để thủ lợi, tham nhũng, đục khoét của công để
làm giầu bất chính; tập trung vào các hoạt động hưởng thụ, ăn chơi trong
lối sống tương phản với cuộc chiến đấu gian nguy của những người lính
tham chiến trực tiếp với Việt cộng và đời sống thiếu thốn của gia đình
họ ?- Ân hận vì đã cấu kết bè phái để tranh danh đoạt lợi, ám hại những
người công chính, coi lợi ích cá nhân và phe nhóm cao hơn lợi ích chống
cộng; khoán trắng việc chống cộng cho Hoa Kỳ và coi việc chống cộng
thắng bại là trách nhiệm của Hoa Kỳ, do Hoa Kỳ hoạch định, tài trợ mọi
mặt?
Chẳng
hạn là những thương gia ân hận vì đã chậy theo lợi nhuận, móc ngoặc,
mua chuộc hủ hóa các viên chức chính quyền quân sự cũng như dân sự, môi
giới buôn bán vũ khí và cung cấp lương thực cho Việt cộng….?
Chẳng
hạn, là bậc cha mẹ đã ân hận vì đã tìm cách chậy chọt cho con làm lính
ma, lính kiển, để được về phục vụ hậu phương xa chiến trường lửa đạn. Là
thanh niên ân hận vì đã hèn nhát, tham sống sợ chết, tìm cách trốn lính
khi đến tuổi thi hành nghĩa vụ trai thời loạn.
Chẳng
hạn là những người gốc Việt cộng, hay ngưỡng vọng Việt cộng, hay “Nằm
vùng”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” sớm muộn nay đã “phản tỉnh” thì
ân hận vì những nhận thức, hành động sai lầm trong quá khứ làm lợi cho
Việt cộng, hại cho Quốc gia ngày ấy….
2 - Đến đây, Việt quốc mang mối “Hận” để làm gì?
Theo
suy luận của chúng tôi, đối với Việt cộng, Việt quốc “căm hận” không
phải nuôi chí phục thù rửa hận theo kiểu “Răng đền răng, mắt đền mắt”
thời Trung Cổ ở Tây Phương; cũng không phải tìm cách diệt đến người Việt
cộng cuối cùng. Vì điều này không phù hợp với bản chất nhân đạo và lý
tưởng chiến đấu của Việt quốc (mà dù ai đó vì“căm thù Việt cộng” có muốn
thế cũng không thể làm được).
Nhưng
điều Việt quốc có thể, đã và đang làm và chắc chắn làm được để “phục
thù” Việt cộng là kiên trì đấu tranh vương đạo như đã kiên trì đấu tranh
44 năm qua nhằm làm tiêu vong toàn bộ chế độ độc tài toàn trị Việt cộng
để thiết lập chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.
Thắng lợi sau cùng này của cuộc đấu tranh sẽ khẳng định sự tất thắng của
chính nghĩa quốc gia và như thế là Việt quốc đã rửa được mối “Quốc hận
30-4-1975” ?
Đối
với người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, từng là đối thủ trong chiến
tranh, nay lại là “Đối tác” làm ăn với Việt cộng, song cũng vẫn đang là
đồng minh với Việt quốc về mục tiêu hiện thực lý tưởng tự do, dân chủ và
nhân quyền cho Việt Nam. Mối “oán hận” chỉ nên coi là bài học kinh
nghiệm để có cách ứng xử thận trọng và khôn ngoan hơn trong tương lai
sao cho có lợi cho sự nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt
Nam. Đó là bài học kinh nghiệm về tinh thần độc lập tự chủ, sức mạnh
đoàn kết và luôn chủ động trong tổ chức, chiến lược, chiến thuật đấu
tranh chính trị, ngoại giao, truyền thông, để huy động được sức mạnh nội
lực (trong nước) cũng như ngoại lực (quốc tế), nhưng luôn dựa trên sức
mình là chính để chống cộng và thắng cộng.
Đối
với những người lãnh đạo có trách nhiệm đã để chế độ Việt Nam Cộng Hòa
sụp đổ, mối hận của Việt quốc đến nay sau 44 năm dường như đã được cảm
thông và tha thứ phần nào đối với những người còn sống hay đã khuất. Có
lẽ vì ghĩ lại, trong bối cảnh Miền Nam vào những năm tháng cuối cùng
trước khi rơi vào tay Việt cộng, Hoa kỳ đã có ý định bỏ cuộc và cố tình
tạo tiền đề thuận lợi cho Việt cộng cưỡng tử Việt Nam Cộng Hòa càng
nhanh càng tốt, để khỏi phải dính líu thêm nữa, rút ngắn thời gian đi
vào thế chiến lược quốc tế mới; thì cá nhân cố Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa lúc đó cũng chẳng làm được gì hơn là trốn chạy để bảo toàn
tính mạng; trừ khi họ dám chọn cái chết hào hùng để trở thành anh hùng
bất tử như các vị Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần
Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ... Tiếc rằng phần đông họ đã không chọn con đường
như vậy. Thôi thì công tội của họ xin hãy đề lịch sử mai này phán định
công minh.
Riêng
mối hận mình, mỗi người trong bên Việt quốc hãy tự xét mình xem có điều
gì “ân hận” về những gì nên làm đã không làm hay không nên làm mà đã
làm có lợi hay có hại cho Việt quốc, có lợi cho Việt cộng trong cuộc
chiến tranh Quốc- Cộng hôm qua?- “Ân hận” để tự rút ra bài học kinh
nghiệm vận dụng vào cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam
hôm nay, để chỉ nên làm những gì có lợi , tránh làm những gì có hại cho
sự nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước.
Có
như vậy Việt quốc mới rửa được “Quốc hận 30-4-1975”, ngày cuối cùng của
“Tháng Tư Đen”, để đưa cất những ngày, tháng, năm này đi vào những
trang lịch sử đen tối nhất của dân tộc, đất nước, mở ra những trang sử
mới tươi sáng cho Tổ Quốc Việt Nam.
Thiện Ý
Houston, Tháng Tư năm 2019
(VOA)
Không có nhận xét nào