Quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ nói Việt
Nam là "một đối tác quan trọng" và mong muốn liên minh chặt chẽ hơn với
Hà Nội, dù biết Việt Nam chịu nhiều tác động của Trung Quốc, theo cuộc
hội thảo hợp tác chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hôm 3/4.
Mỹ muốn hợp tác chiến lược chặt chẽ hơn với Việt Nam |
Việt
Nam giới hạn chiến hạm nước ngoại đến thăm mỗi năm một lần do ảnh hưởng
của Trung Quốc đối với chính sách ngoại giao của Việt Nam, David Shear,
cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam và cũng là cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc
phòng Hoa Kỳ nói tại cuộc hội thảo.
Ông
cho biết có thể Hoa Kỳ không bao giờ có được một liên minh với Việt
Nam, nhưng Việt Nam "luôn luôn có cơ hội liên minh với Hoa Kỳ khi Việt
Nam muốn".
Hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ vững mạnh hơn
Tại
cuộc hội thảo tổ chức ở Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Thuật và Quốc Tế
(CSIS), Randall Schriver, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, nói rằng
Hoa Kỳ xem Việt Nam là một đối tác quan trọng.
"Hợp
tác quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở nên vững mạnh hơn trong
hai năm qua. Hai nước có những kế hoạch dựa trên quyền lợi chung sẽ làm
cho sự hợp tác ngày càng mạnh hơn," ông Schriver nói.
"Quan
hệ quốc phòng của chúng ta mạnh mẽ và là một trong những cột trụ vững
chắc nhất trong mối quan hệ song phương và đa diện. Hoa Kỳ đang tìm cách
cải thiện quan hệ quốc phòng với Việt Nam."
Ông
Schriver nêu thí dụ vào năm ngoái, hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson
đã đến thăm Đà Nẵng lần đầu tiên sau chiến tranh. Đôi bên đang thảo luận
để có một cuộc viếng thăm thứ hai vào năm nay. Ông hi vọng rằng các
chuyến viếng thăm của chiến hạm Hoa Kỳ trở thành một thông lệ.
Ngoài
ra, ông cho biết, vào 2017, Hoa Kỳ đã chuyển giao cho Việt Nam một tàu
tuần duyên USCGC Morgenthau và chiếc tàu này đang bận rộn tham gia vào
nhiều công tác bảo vệ an ninh hang hải.
Ông
Schriver hi vọng sẽ có chiếc tàu thứ hai cho Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp
tục giúp Việt Nam tăng cường khả năng quân sự và theo đuổi những cơ hội
về huấn luyện và hợp tác quân sự gồm cả quân y, cấp cứu và hoạt động
bảo vệ hòa bình. Hoa Kỳ từng trợ giúp toán quân giữ hòa bình tại South
Sudan làm nhiệm vụ.
"Chúng
ta nâng cấp các cuộc họp thảo luận quốc phòng hàng năm và chúng ta có
những cuộc tiếp xúc cao cấp chưa từng có, không những tổng thống Hoa Kỳ
đã đến thăm Việt Nam hai lần kể từ khi ông làm tổng thống, mà riêng
trong năm vừa qua, Bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đã đến Việt Nam hai
lần."
Ông Schriver cũng cám ơn sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề tìm kiếm binh sĩ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.
Mong muốn VN 'thịnh vượng, độc lập'
Ông
nhận định rằng Hoa Kỳ và Việt Nam "chia sẻ chung một quyền lợi, đó là
tích cực ủng hộ sự ổn định dựa trên luật pháp, bảo vệ chủ quyền, quyền
của mỗi cá nhân hay của quốc gia bất kể lớn hay nhỏ."
"Chúng
ta cùng chia sẻ một tầm nhìn rằng muốn cho toàn vùng Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương phồn thịnh, mỗi quốc gia trong vùng phải được tự do quyết
định đường hướng riêng của mình trong một hệ thống giá trị để bảo đảm
những cơ hội cho ngay cả những nước nhỏ nhất có thể phát triển và không
bị những nước lớn phá phách bóc lột.
"Tóm
lại, điều mà chúng ta mong muốn là Việt Nam là một quốc gia hùng mạnh,
thịnh vượng và độc lập, không phải điều gì khác," ông Schriver nói.
Ông
Schriver đề cập đến việc Trung Quốc quân sự hóa những hòn đảo ở Biển
Đông, trái với lời cam kết của Chủ Tịch Tập Cận Bình vào 2015 tại vườn
Hồng của Nhà Trắng. Vào năm vừa qua, Trung Quốc đã đặt tên lửa hành
trình dọc theo bờ biển và tên lửa địa không tầm xa tại căn cứ ở Trường
Sa.
Image caption Từ trái: Ông Hà Kim Ngọc, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, GS Evan Medeiros, GS Michael Green, Dr. Amy Searight (CSIS).
Ông
Schriver nói: "Toàn vùng ngày càng phải đương đầu với một Trung Quốc
xâm lăng và liều lĩnh, sẵn sàng chấp nhận xung đột để theo đuổi quyền
lợi của họ."
Lập
lại quan điểm của ông Schriver, ông David Shear cũng nhận định rằng đối
với Việt Nam và tất cả các thành viên ASEAN, Hoa Kỳ đang giúp các nước
này bảo vệ chủ quyền quốc gia, giúp họ tăng cường khả năng và quân đội
và giúp Việt Nam tự tin để đối phó với Trung Quốc và bảo vệ được quyền
lợi quốc gia.
Hợp tác chiến lược không chỉ là về quốc phòng
Phân tích của chuyên gia kinh tế Nguyễn Quốc Khải, người tham dự hội thảo
Nhiều
năm nay Hoa Kỳ cho chiến hạm và phi cơ quân sự đi qua Biển Đông để bảo
đảm quyền tự do lưu thông với số lượng hàng hóa chuyển vận qua vùng này
trị giá lên tới 5,000 tỉ Mỹ kim hàng năm.
Dưới
thời Tổng Thống Trump, sau hơn một năm gần như bất động, Hoa Kỳ đã tiến
thêm một bước nữa, cho chiến hạm qua lại nhiều hơn và chạy trong vòng
12 hải lý của các đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Tài
liệu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nhận định , Quân lực của Việt Nam gồm có
Quân Đội Nhân Dân, Lực lượng Công An, và Lực lượng Dân phòng với Quân
đội Nhân dân có 450,000 tại ngũ. Nếu bao gồm cả những lực lượng bán quân
sự, quân số lên tới khoảng 5 triệu người khiến "Việt Nam là một quốc
gia có một quân lực mạnh nhất vùng Đông Nam Á".
Hợp
tác chiến lược không phải chỉ là hợp tác quốc phòng. Kinh tế là một
phần quan trọng của chiến lược. Tôi nghĩ Việt Nam sẽ đáp ứng tích cực
với đề nghị hợp tác kinh tế.
Lý
do là ngân sách quốc gia của Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp thiếu
hụt đáng kể. Vào cuối năm 2018, thiếu hụt ngân sách ước độ khoảng 266
ngàn tỉ đồng hay 4.8% tổng sản phẩm nội địa (GDP). Thu nhập từ việc sản
xuất dầu khí suy giảm đáng kể, từ 120 ngàn tỉ đồng vào năm 2013 xuống
còn khoảng 36 ngàn tỉ đồng vào 2018.
Nhà
nước đã và đang phải bán một số những công ty quốc doanh và liên tục
tăng thuế. Theo Ngân Hàng Thế Giới, tỉ lệ thuế, phí so với GDP của Việt
Nam cao nhất trong khu vực.
Việt
Nam có 2,500 cây số đường biển và một nửa dân số sống trong vùng duyên
hải, nên không ai ngạc nhiên khi Việt Nam tăng cường ngân sách quốc
phòng trước chính sách bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên
sự kiện ngân sách thiếu hụt liên tục qua nhiều năm đã làm cho Việt Nam
gặp khó khăn trong việc mua vũ khí cần thiết.
Gia
tăng khai thác dầu khí ở Biển Đông không những giải tỏa một phần thiếu
hụt ngân sách nhà nước mà còn là biện pháp cụ thể và mạnh mẽ để xóa bỏ
con đường chin đoạn của Trung Quốc. Nếu Hoa Kỳ và Việt Nam muốn tìm một
quyền lợi chung để chia sẻ và tăng cường hợp tác chiến lược thì đây là
điều phải làm.
Vào
2017, trong tuần đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống, ông Trump đã vội vã
quyết định rút ra khỏi Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP). Tôi nghĩ đây là một quyết
định sai lầm.
Thiếu
Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Nhật, 11 nước còn lại đã thành lập Hiệp
Định Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive
and Progressive Trans-Pacific Partnership - CPTPP). Hiệp định mới đã có
hiệu lực kể từ 30/12/2018.
Theo
tôi hiểu, một trong những lý do Tổng Thống Trump rút ra khỏi TPP là ông
muốn bảo vệ việc làm công nghệ của Hoa Kỳ. Sau gần hai năm tại chức ông
mới học được kinh nghiệm về một Trung Quốc ngang ngược. TPP do sáng
kiến của Tổng Thống Obama được hoạch định để kiềm chế Trung Quốc về cả
hai phương diện kinh tế và chính trị.
Đó
cũng chính là mục tiêu của Tổng Thống Trump bây giờ. Ngay trong cuộc
hội thảo tại CSIS Đại Sứ Việt Nam tại Washington Hà Kim Ngọc đã kêu gọi
Hoa Kỳ trở lại TPP. Tôi thiết nghĩ Hoa Kỳ nên gia nhập CPTPP càng sớm
càng tốt. Sự trở lại của Hoa Kỳ có thể lôi kéo theo nhiều quốc gia khác
như Thái Lan, Phi Luật Tân, và Nam Hàn.
Hoa
Kỳ tham gia CPTPP là một biện pháp hợp tác chiến thuật hữu hiệu với
Việt Nam và giúp quốc gia này bớt lệ thuộc vào Trung Quốc. Đó cũng chính
là nguyện vọng của Việt Nam.
Gửi tới BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
*
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Nguyễn Quốc Khải, hiện
đang sống ở Virginia, Hoa Kỳ. Ông là cựu chuyên viên kinh tế làm việc
cho Ngân hàng Thế giới.
(BBC)
Không có nhận xét nào