Sau 30 tháng Tư cả nước rơi vào tình
trạng khó thể tả trong vài trang viết. Sụp đổ, tan tác, vui mừng, trốn
chạy, tuyệt vọng, sợ hãi, hận thù, ngạo nghễ, nước mắt, sum họp và chia
lìa….
Nhạc phẩm Con Đường Xưa Em Đi của Châu Kỳ và Hồ Đình Phương. |
Bên
cạnh những cách nói xa lạ từ Bắc tràn vào, người miền Nam được nghe
những ca khúc lạ lẫm trên đài Tiếng Nói Việt Nam phát từ những chiếc loa
phường hàng ngày rồi quen dần, chai dần với những khó chịu ban đầu.
Giai điệu chiến tranh vẫn đầy dẫy trong các nhạc phẩm ca ngợi hòa bình,
ca ngợi chiến thắng. Những ca từ mang sắc tố đỏ chói làm cho không ít
người gục đầu nuối tiếc một thời chữ nghĩa của miền Nam. Cái thời mà
người ta yêu nhau không dám đặt mạnh chân trên con đường hò hẹn vì sợ nó
đau dưới gót chân mình. Người ta gọi đó là lãng mạn, có người xem đó là
văn chương, nhưng đông hơn cả là sự cảm nhận với cách diễn đạt nỗi niềm
đầy tính người trong ngôn ngữ.
Miền
Bắc có dòng nhạc chiến đấu trong khi đó mặc dù thời kỳ chiến tranh
nhưng miền Nam thiếu vắng những bước chân rầm rập, những ngọn lưỡi lê
căm thù chĩa vào đối phương, những tiếng hô xung phong đầy máu lửa. Thay
vì phanh thây uống máu quân thù thì miền Nam lại: “Anh! Anh! Nhớ anh
trời làm cơn bão / Anh! Anh! Tiếc anh chiều rừng thay áo / Ôi! Vết đau
nào đưa anh đến / Ngàn đời của nhớ thương / Hỡi bức chân dung trên công
viên buồn” trong nhạc phẩm Người ở lại Charlie, kể lại câu chuyện của
Đại tá Nguyễn Đình Bảo tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 nhảy dù tử trận năm
1972 trên đồi Charlie. Mặc dù cả miền Nam lúc ấy ngưỡng mộ sự hy sinh
của ông nhưng câu chữ viết về sự hy sinh ấy chỉ gói gọn trong hai chữ
“tiếc thương” và “buồn”, rồi thôi.
Mặc
dù ai cũng dễ dàng chấp nhận “anh nằm xuống cho hàng ngàn người đứng
lên” là phải đạo, hợp lý, nhưng hầu hết tác giả miền nam lại từ chối sự
hợp lý ấy và chọn cho mình niềm thương tiếc, vốn khó thể chấp nhận trong
hoàn cảnh chiến tranh. Thay vì trả thù, người ta lại ca tụng sự hy
sinh. Thay vì miêu tả sự hy sinh lẫm liệt đến tàn khốc của ông thì nhạc
sĩ Trần Thiện Thanh vẽ lại hình ảnh sự hy sinh ấy bằng chiều rừng thay
áo, bằng vết đau, bằng nhớ thương của người ở lại và cuối cùng là bức
chân dung trên công viên buồn!
Yếu đuối và tang thương quá.
Nhưng
chính cái yếu đuối mang dấu ấn tang thương ấy đã làm cho nhạc phẩm
tranh sống với thời gian. Nó lay động sự tỉnh thức của con người rằng
không gì quý bằng sinh mạng chính nó. Một cái chết không thể đánh đổi
bằng hàng chục cái chết khác để trả lại món nợ chiến tranh. Chân lý này
khó thể biện minh trong khi chiến tranh xảy ra vì nó phản lại với sức
chiến đấu, thế nhưng nó vĩnh cữu. Chiến tranh dù lớn cách nào cũng phải
kết thúc và thời gian qua đi người ta có khuynh hướng tìm về với bản ngã
và quay lưng với những lời lẽ tuyên truyền sắt máu.
Người
miền Nam không gọi nhạc bên này vĩ tuyến là “nhạc vàng” như người miền
Bắc. Hai chữ “nhạc vàng” có lẽ chỉ xuất hiện sau năm 1968 tại Hà Nội khi
vụ án của ông Nguyễn Văn Lộc và nhóm bạn của ông vì đam mê các nhạc
phẩm tiền chiến cả trong Nam ngoài lẫn Bắc trước năm 1954 đã lén lút hát
với nhau và bị bắt, bị kết án tù nặng nề như những tội phạm chính trị
nguy hiểm. Ông Lộc hát “nhạc vàng” nên thành danh với cái tên Lộc Vàng
từ đó.
Không
riêng ông Lộc vàng hát trong các buổi sinh hoạt bạn bè, hàng ngàn người
dân miền Bắc đã biết âm thầm nghe và hát dòng nhạc này trong khi họ
sống và chiến đấu với dòng nhạc đỏ kế cận. Từ trong chiến tranh, những
chiếc radio nho nhỏ mang theo tiếng hát trữ tình từ miền Nam phát ra đã
chinh phục một số không nhỏ người miền Bắc. Rồi chiến tranh kết thúc,
người bộ đội vào Nam mang về những tiện nghi cần thiết trong đó không
thiếu những bản nhạc còn sót lại của miền Nam trước ngày giải phóng.
Những
bản nhạc ấy từ đó sống cùng với đồng bào miền Bắc. Sống và chia sẻ với
đồng bào của mình những gì đã xảy ra qua các ca khúc vượt thời gian,
vượt ngôn ngữ vùng miền và nhất là vượt cả ý thức hệ một thời họ từng
mang nặng.
Gần
nửa thế kỷ trôi qua nhạc vàng tuy ít có bài mới, hay và gắn bó người
nghe như thời kỳ trước năm 75 nhưng bù lại, thời gian giống như một trợ
thủ cho dòng nhạc này vì khả năng thẩm thấu của giai điệu, rung động của
ca từ đã làm nó tái sinh trong lòng người nghe. Nó như người bạn chân
tình vuốt ve cảm nhận người thưởng thức nó đến tận cùng của sự rung cảm.
Giống như Lộc vàng trước đây, người ta nghe Gửi gió cho mây ngàn bay
hoặc Tà áo xanh của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Con thuyền không bến của Đặng
Thế Phong. Biệt ly của Doãn Mẫn. Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương. Cô láng
giềng của Hoàng Quý. Buồn tàn thu hay Bến Xuân của Văn Cao hoặc Bên cầu
biên giới của Phạm Duy hay Ngàn thu áo tím của Hoàng Trọng….
Nhưng chưa đủ nếu không nhắc tới một thể loại khác trong dòng nhạc vàng của miền Nam: Bolero
Nửa
bình dân, nửa trau chuốt, Bolero xuất hiện giữa Sài gòn kéo theo cơn
sốt hát và nghe trên mọi hệ thống truyền thông của nhà nước. Những cuộc
thi hát Bolero được tổ chức rầm rộ trên đài truyền hình quốc gia. Ca sĩ
hát nhạc Bolero từ hải ngoại về có giá cát xê ngất ngưỡng làm các ca sĩ
“cách mạng” cũng chạy theo thị trường âm nhạc bất ngờ này.
Câu
chuyện Bolero hot đến nỗi Báo Nhân Dân phải có bài viết về nó. Bài “Ca
sĩ nổi tiếng hát nhạc Bolero” có đoạn: “Từ khi Bolero trở thành một trào
lưu trong đời sống âm nhạc nước nhà, nhiều giọng ca từng định danh và
tạo dựng dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng với đa dạng phong cách (từ
thính phòng, dân ca, cách mạng đến đương đại, nhạc trẻ...) đều đã lần
lượt chọn ngã rẽ “nhạc trữ tình”, như một cách làm mới bản thân. Dù đánh
giá dưới góc độ nào thì cũng phải ghi nhận một điều, họ đều rất bản
lĩnh, khi chọn chinh phục khán giả bằng dòng nhạc vốn được coi là “sở
đoản”.”
Người
dân cả nước không cần “bản lĩnh” như các ca sĩ mà báo Nhân Dân nhắc
tới. Họ chỉ cần có “tâm trạng” là Bolero lập tức đáp ứng, chia sẻ.
Rất
nhiều bài viết phân tích hiện tượng Bolero trong những năm qua trên báo
chí nhà nước, trong đó cho rằng sở dĩ nó nổi tiếng vì tính chất kể
chuyện dễ làm người nghe rung động, tính chất tự sự và đơn giản trong
cách diễn tả đã khiến Bolero chinh phục gần như mọi giai cấp xã hội.
Nhưng
có một điều báo chí không nhắc tới đó là yếu tố chiến tranh và kỷ niệm
của người miền Nam đã làm cho dòng nhạc này sống dai dẳng trong lòng
người nghe đến vậy.
Chiến
tranh tất có chia lìa, đau thương và nhất là chết chóc. Nhiều ca khúc
trong thời kỳ chiến tranh được viết trên căn bản của ba nguồn cảm hứng
này, tuy nhiên Bolero là thể loại được nhiều nhạc sĩ miền Nam dùng để
chuyên chở ý tưởng của mình và sự sáng tạo của họ thành công khi luôn
luôn xem trọng yếu tố tình yêu đôi lứa trên từng nốt nhạc.
Trong
bài Con đường xưa em đi của Châu Kỳ và Hồ Đình Phương ca từ thật mộc
mạc và đơn giản nhưng phía sau những con chữ ấy chứa đựng tâm sự của một
lớp trai thời chinh chiến. Bản phác họa đơn giản ấy có thể đại diện cho
một thời kỳ chiến tranh tuy khốc liệt ngoài mặt trận nhưng hậu phương
vẫn lãng mạn trong lúc chia lìa: “Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc
thề, ngõ hồn dâng tái tê / Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe
chuyện tình ta đã ghi / Những mùa trăng vu quy, vì mưa gió không về /
Chiến trường anh bước đi / Có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng
hoe... Hỏi còn ai cố tri?”
Cũng
có những cuộc chia ly nhưng không tan vỡ. Họ là những đôi tình nhân,
thậm chí là vợ chồng trong thời chiến vợ tiễn chồng lên đường ra chiến
trường với hình ảnh tuyệt đẹp của một đêm không trăng sao. Tạ từ trong
đêm là một ca khúc có ý nghĩa ấy: “Nếu em biết rằng có những người đi
đấu tranh chưa về / Mang lời thề lên miền sơn khê / từng đêm địa đầu hun
hút gió sâu / Nếu em đã gặp mẹ già thương con khấn nguyện đêm rằm / Vợ
yêu chồng đan áo lạnh từng đông / Thì duyên tình mình có nghĩa gì không?
Vô
số chuyện tình với đủ sắc màu được dòng nhạc Bolero chuyển tải để lại
cho người nghe những cảm xúc đặc biệt mà trước đó họ không tìm thấy được
trong dòng nhạc cách mạng. Sau năm 75 có nhiều gia đình mất tất cả.
Miền Bắc mất chồng mất con, miền Nam mất con người, của cải lẫn tương
lai…những cái mất ấy được đền bù phần nào trong dòng nhạc vàng mà trước
đó hàng ngàn người đã sáng tạo, bồi đắp bằng kinh nghiệm, nỗi đau, mất
mát của chính họ với một nhãn quan nhân bản lấy cảm xúc thật làm gốc cho
tác phẩm của mình.
Mặc Lâm
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào