Một nghiên cứu mới về viện trợ Trung
Quốc cho Bắc Việt Nam từ 1964 tới 1975 kết luận Trung Quốc góp phần giúp
miền Bắc chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng Bắc Kinh không
tác động nổi tới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai năm 1953 |
Bài
viết Reassessment of Beijing's economic and military aid to Hanoi's
War, 1964-75 của Shao Xiao & Xiaoming Zhang vừa đăng trên tạp chí
học thuật Cold War History tháng 4/2019.
Hai tác giả nói viện trợ của Trung Quốc thay đổi suốt chiến tranh, đạt đỉnh cao năm 1965, 1967, 1972, và 1974.
Trung
Quốc viện trợ để phục vụ lợi ích riêng của nước này. Vì vậy, sự thay
đổi trong viện trợ khiến Hà Nội nghi ngờ ý định thật của Bắc Kinh.
Theo
lịch sử chính thức của Trung Quốc, từ thập niên 1950 tính tới 1975,
Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 20 tỉ nhân dân tệ.
Trong đó, 1,4 tỉ là cho vay không lãi suất.
Hai
tác giả nói đóng góp của Trung Quốc cho chiến thắng của Hà Nội là không
thể phủ nhận. Nhưng viện trợ này chưa bao giờ thuần túy vị tha.
Sau khi xem Liên Xô là đe dọa lớn, Mao Trạch Đông tìm cách hòa hoãn với Mỹ, khiến Hà Nội lo lắng.
Trung
Quốc có lúc tăng viện trợ cho Hà Nội nhưng cũng có lúc giảm đi để bày
tỏ bất mãn, như khi Hà Nội đàm phán hòa bình với Mỹ năm 1968 và 1969.
Hai
tác giả nói: "Không thấy có bằng chứng nào tồn tại rằng viện trợ Trung
Quốc tác động tới các quyết định và cách tiến hành chiến tranh của Hà
Nội."
"Hà Nội thao túng khéo mối quan hệ với Bắc Kinh để có viện trợ đáng kể," hai tác giả viết.
Sau 1975, Hà Nội không còn phải che giấu sự nghi ngờ Trung Quốc, dẫn tới cuộc chiến ngắn ngày năm 1979.
Hai
tác giả kết luận, khi nhìn lại, hóa ra sự hỗ trợ của Trung Quốc cho
Việt Nam có thể xem là "thất bại ngoại giao lớn nhất" của Trung Quốc
trong Chiến tranh Lạnh.
Viện trợ sau hiệp định Paris 1973
Năm
1974, viện trợ Trung Quốc cho Hà Nội ở khoảng 2,5 tỉ nhân dân tệ, ngoài
ra là 2 tỉ tệ cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam.
Lúc
này, Trung Quốc cho rằng Hà Nội "cần nghỉ ngơi", trong lúc Nam Việt
Nam, Lào và Campuchia "dựng xây hòa bình, trung lập" trong 5 tới 10 năm
nữa.
Bắc Kinh lúc này xem Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một thực thể riêng.
Trước
1973, viện trợ của Bắc Kinh cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam luôn do Hà Nội xử lý. Nhưng từ 1973, Bắc Kinh xem viện
trợ này là riêng biệt, không để Hà Nội kiểm soát.
Nhưng Hà Nội phản đối điều này, buộc Bắc Kinh sau đó phải thay đổi trở lại, để Hà Nội kiểm soát.
Sau khi có hiệp định Paris 1973, Trung Quốc xem chiến tranh Việt Nam thế là hết, và vì vậy cần giảm viện trợ vũ khí cho Hà Nội.
Ngày
26/10/1974, Trung Quốc và Việt Nam ký thỏa thuận lần chót, cung cấp cho
Hà Nội 850 triệu tệ cho kinh tế và vũ khí, cùng 50 triệu đôla tiền mặt
cho năm 1975.
Sau khi Sài Gòn sụp đổ, vào ngày 31/5/1975, Bắc Kinh lại đồng ý gửi cho Hà Nội 21 triệu tệ.
Nhưng tháng Tám 1975, Bắc Kinh bác yêu cầu xin thêm của Hà Nội.
Ngày 25/9/1975, Bắc Kinh hứa gửi 100 triệu tệ trong năm 1976, nhưng lần này là cho vay, yêu cầu Việt Nam trả lại sau 10 năm.
Theo
hai tác giả, không thấy có bằng chứng nào trong hồ sơ Trung Quốc rằng
kể từ đó, có thêm thỏa thuận viện trợ nào giữa hai nước.
Tác
giả Shao Xiao công tác ở khoa lịch sử, Đại học Tế Nam, Quảng Châu, còn
ông Xiaoming Zhang làm việc ở Air War College, Alabama, Hoa Kỳ.
Góc nhìn Việt Nam
Về
phía Việt Nam, một nghiên cứu gần đây năm 2016 của Lưu Văn Quyết,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, nói Trung Quốc
"thay đổi cách nhìn cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam; điều chỉnh trong
chính sách viện trợ bằng việc cắt giảm viện trợ kinh tế, từ cam kết
"cung cấp bất kỳ thứ gì cần thiết cho Việt Nam", sang việc nhấn mạnh "để
cho Trung Quốc nghỉ xả hơi"; gây một số khó khăn trong việc vận chuyển
các mặt hàng viện trợ quá cảnh của Liên Xô và các nước khác cho Việt
Nam."
Đây
là đoạn trích từ bài "Tác động của hòa hoãn Trung - Mỹ đến chính sách
viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam trong và sau năm 1972" của ông Lưu Văn Quyết.
Trong
bài này, tác giả Việt Nam nói: "Để đạt được mục tiêu cuối cùng là giải
phóng dân tộc, Việt Nam đôi lúc hoặc bỏ ngỏ hoặc không gay gắt trong
một số vấn đề phát sinh với Trung Quốc. Những vấn đề về biên giới lãnh
thổ và một số vấn đề khác vốn bị cố tình giảm nhẹ đi trong điều kiện
Việt Nam đang tranh thủ viện trợ, dốc toàn sức lực cho cuộc đấu tranh
giải phóng đất nước."
"Vì
vẫn muốn nắm vấn đề Việt Nam để tạo lợi thế trong quan hệ với Mỹ và
tránh để Liên Xô nhảy vào lấp chỗ trống, tạo nên uy hiếp mới sau khi Mỹ
rút quân. Trung Quốc vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam, dù số
lượng có giảm so với những giai đoạn trước."
(BBC)
Không có nhận xét nào