Một nghĩa trang quân đội Trung Quốc từ cuộc chiến biên giới 1979 với Việt Nam. |
Nhắc
đến cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam diễn ra từ
17/2 đến 16/3/1979, nhiều người cho rằng cuộc chiến đó là tất yếu. Vì
Trung Quốc phải phá gọng kìm của Liên Xô bao vây Trung Quốc sau khi Việt
Nam ký một hiệp ước đồng minh quân sự với Liên Xô vào tháng 11/1978. Vì
Trung Quốc phải giải cứu đồng minh Khme đỏ sau khi quân đội Việt Nam
tiến vào Phnom Penh vào đầu tháng 1/1979 trong một phản kích. Vì Trung
Quốc muốn chứng mInh Trung Quốc kiên quyết chống sự bành trướng của Liên
Xô trong khu vực để từ đó thuyết phục Mỹ và các nước phương Tây khác
giúp thực hiện “Bốn hiện đại hóa” thông qua đầu tư tư bản và công
nghệ... Thế nhưng, theo quan điểm của người viết bài này, cuộc xâm lược
ấy của Trung Quốc sẽ không xảy ra nếu ban lãnh đạo Việt Nam thống nhất
có sự hiểu biết đúng về bản thân và nhất là về Mỹ để không bỏ lỡ bình
thường hóa quan hệ với siêu cường này ngay sau khi Chiến tranh Việt Nam
kết thúc.
Mỹ
tiến hành Chiến tranh Việt Nam là nhằm thực hiện Học thuyết Domino do
Tổng thống Eisenhower đề xướng trong một cuộc họp báo ngày 7/4/1954, ba
tuần sau khi trận Điện Biên Phủ nổ ra và đang diễn biến theo chiều hướng
bất lợi cho quân Pháp. Theo học thuyết này, Đông Dương của Pháp thất
thủ trước cộng sản sẽ tạo ra một hiệu ứng Domino hay sụp đổ dây chuyền
trên toàn Đông Nam Á, đồng nghĩa Miến Điện, Thái Lan, Indonesia cũng sẽ
rơi vào tay cộng sản. Các quân Domino tiếp theo sẽ là Nhật Bản, Đài
Loan, Philippines rồi Australia, New Zealand. Ông nhấn mạnh: “Nhật Bản
sẽ hoặc mất đi một vùng đất để buôn bán hoặc sẽ hướng đến phía cộng sản
để có thể sống còn”. Để ngăn chặn sự sụp đổ dây chuyền này, Mỹ phải can
thiệp quân sự. Tóm lại, Học thuyết Domino là học thuyết chống cộng sản.
Năm
1964, để cứu Việt Nam Cộng hòa khỏi sụp đổ trước sự tấn công của Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở
miền Bắc dựng lên và hậu thuẫn, Tổng thống Johnson quyết định đưa quân
chiến đấu vào Nam Việt Nam. Ngày 8/3/1965, vói việc bốn tiểu đoàn Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, Chiến tranh Việt Nam chính thức bắt
đầu. Tuy nhiên chỉ sau 3 năm chiến tranh, nhất là sau cuộc tổng tấn
công của cộng sản vào Tết Mậu Thân 1968, chính quyền của Tổng thống
Johnson, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, người được mệnh danh “Kiến trúc
sư trưởng của Chiến tranh Việt Nam”, trước hết, nhận ra rằng những người
cộng sản Việt Nam chiến đấu vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước
hơn là vì ý thức hệ, nghĩa là họ tiến hành một cuộc chiến dân tộc chủ
nghĩa chứ không phải là cuộc chiến cộng sản chủ nghĩa do Liên Xô và
Trung Quốc lãnh đạo. Trong hồi ký “Nhìn lại quá khứ” xuất bản 20 năm sau
Chiến tranh Việt Nam, McNamara thừa nhận chính quyền Mỹ đã mắc sai lầm
nghiêm trọng khi “hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh dân tộc chủ nghĩa
trong phong trào Hồ Chí Minh”. Trên thực tế, Nguyễn Ái Quốc, sau này là
Hồ Chí Minh, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp vào năm 1920 là vì,
theo như ông nói, “các đại biểu của Quốc tế Thứ 3 hứa sẽ giúp các dân
tộc thuộc địa đang bị áp bức giành lại tự do và độc lập” trong khi “các
thành viên của Quốc tế thứ 2 không nói một từ về số phận của các vùng
thuộc địa". Sau khi tuyên cáo Việt Nam Độc lập vào ngày 2/9/1945, Hồ Chí
Minh, với tư cách Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
mà phụ thân người viết bài này, Cù Huy Cận, là Bộ trưởng thành viên,
cũng nói với Thiếu tá Archimedes L.A Patti, chỉ huy OSS (tình báo quân
sự Mỹ) tại miền Bắc Việt Nam rằng ông theo chủ nghĩa Lênin, tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là
những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa.
Khi
nhận thức được rằng Mỹ không thể thắng trong Chiến tranh Việt Nam khi
đối đầu với chủ nghĩa dân tộc của người Việt thay vì đối đầu với chủ
nghĩa cộng sản, cuối tháng 2/1968 McNamara từ chức Bộ trưởng quốc phòng.
Một tháng sau, Johnson tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ
1968-72 và đề nghị mở thương thuyết với Hà Nội để chấm dứt chiến tranh.
Điều này có nghĩa một cuộc triệt thoái quân Mỹ khỏi Nam Việt Nam, mà hệ
quả có thể nhìn thấy trước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ thâu tóm lãnh
thổ này, cũng không tự động dẫn đến cộng sản hóa toàn bộ Đông Nam Á.
Tóm lại, sự thù địch của chính quyền Mỹ đối với những người cộng sản
Việt Nam với tư cách kẻ thù ý thức hệ đến đây chấm dứt, kéo theo sự kết
thúc Học thuyết Domino. Nixon sau khi đắc cử Tổng thống Mỹ cuối 1968 chỉ
cố gắng làm sao để Mỹ rút quân trong danh dự, nghĩa là không mang tiếng
đột ngột bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa. Nỗ lực này được thể hiện bằng chính
sách “Việt Nam hóa chiến tranh” mà nội dung là chuyển trách nhiệm tiến
hành chiến tranh cho Việt Nam Cộng hòa.
Nhận
thức của chính quyền Mỹ theo đó cuộc chiến của những người cộng sản
Việt Nam không phải là cuộc chiến ủy nhiệm của chủ nghĩa cộng sản được
củng cố bởi xung đột Xô – Trung mà đỉnh cao là các trận đánh đẫm máu ở
biên giới giữa hai nước trong năm 1969. Hơn thế nữa, chính quyền Nixon
thấy xung đột giữa hai cường quốc cộng sản là cơ hội để Mỹ thực hiện
“Việt Nam hóa chiến tranh”. Các cuộc đàm phán do Mỹ chủ động tiến hành
với Trung Quốc và tiếp đó với Liên Xô vào nửa đầu năm 1972 nhằm mục tiêu
này đã thành công. Cả Trung Quốc lẫn Liên Xô đều ép Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chấp nhận sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa thay vì thành lập
chính phủ liên hiệp ở miền Nam Việt Nam. Sức ép này có thể thấy rõ qua
việc báo chí Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa thời kỳ đó đăng tải các bài bình
luận nhấn mạnh rằng thời đại các nước lớn áp đặt ý muốn cho các nước nhỏ
đã qua rồi.
Do
không còn coi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thù địch nên chỉ một năm sau
khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, chính quyền Mỹ đã chấp nhận đề nghị bình
thường hóa quan hệ từ ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Ngày 7 tháng 5 năm
1976, Tổng thống Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngưng cấm vận Việt
Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho đối thoại giữa hai nước. Ngày 8
tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger gửi công hàm cho Quốc
Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn
đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Về phần mình, Tổng thống
Carter còn mong muốn việc bình thường hóa này như là một phần của quá
trình hàn gắn vết thương cho nước Mỹ. Khác với người tiền nhiệm, khi gửi
một phái đoàn sang Hà nội vào tháng 3/1977 để thực hiện mục tiêu này,
Carter chỉ thị không đặt MIA (Tìm kiếm lính Mỹ mất tích trong chiến
tranh) làm điều kiện tiên quyết.
Ngược
lại với realpolitik – chính sách cầu thị của chính quyền Mỹ, ban lãnh
đạo Việt Nam thống nhất do say men chiến thắng đã đặt một điều kiện vô
lý cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Họ đòi Mỹ phải trả
3,25 tỷ đô-la để tái thiết Bắc Việt Nam sau chiến tranh mà Tổng thống
Nixon đã cam kết trong công hàm ngày 1/2/1973 gửi Thủ tướng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng. Vô lý là vì cam kết này được đưa ra trong
khuôn khổ Điều 21 của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27/1/1973 trong khi Hiệp định
này mặc nhiên không còn giá trị khi Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm
Dinh Độc Lập, xóa sổ Việt Nam Cộng hòa, thống nhất đất nước vào ngày
30/4/1975. Vì lý do đã rõ, Mỹ từ chối yêu cầu này của ban lãnh đạo Việt
Nam.
Câu
hỏi đặt ra là nếu quan hệ Việt – Mỹ được bình thường hóa vào năm 1977
thì liệu Trung Quốc có xâm lược Việt Nam vào năm 1979. Câu trả lời là
không theo quan điểm của người viết bài này.
Vấn
đề thời hậu chiến đối với Việt Nam là phục hồi kinh tế. Bình thường hóa
quan hệ với Mỹ đồng nhất với chấm dứt cấm vận kinh tế của Mỹ. Điều này
nếu xảy ra chắc chắn sẽ giúp phục hồi kinh tế miền Bắc cũng như phát
triển kinh tế miền Nam một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Kinh tế Việt Nam
sau khi Mỹ bỏ cấm vận kinh tế vào năm 1994 là bằng chứng đầy thuyết
phục. Với một kịch bản như vậy, Việt Nam chắc chắn sẽ không phải phụ
thuộc vào viện trợ của Liên Xô và Đông Âu để tái thiết đất nước cũng như
để bảo đảm đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Khme đỏ ở biên giới
Tây Nam.
Do
kịch bản nói trên đã không xảy ra nên Việt Nam buộc phải tham gia Hội
đồng tương trợ kinh tế (Comecom) do Liên Xô lãnh đạo vào tháng 6/1978 và
ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô trong đó hai bên cam kết
“làm hết sức mình để củng cố hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” vào
tháng 11/1978. Chính những động thái “Xô viết hóa” này của Việt Nam đã
dẫn tới việc Mỹ cấp tốc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, điều đã
xảy ra vào ngày 1/1/1979, để tạo lập một liên minh không chính thức
chống Liên Xô và “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”. Cũng cần nói thêm
rằng Mao Trạch Đông chẳng những chống Liên Xô mà còn phủ nhận “hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới” khi đưa ra “Thuyết ba thế giới” (Thế giới
thứ nhất gồm các siêu cường, cụ thể là “Đế quốc Mỹ” và “Đế quốc xã hội”
Liên Xô. Thế giới thứ hai gồm các cường quốc phát triển. Thế giới thứ ba
gồm các nước bị bóc lột).
Chính
trên căn bản chống Liên Xô và “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” mà
Đặng Tiểu Bình đã đi Mỹ vào cuối tháng 1/1979 để bàn việc Trung Quốc
đánh Việt Nam. Tại cuộc bàn thảo này, Đặng nói rõ là Trung Quốc sẽ đánh
Việt Nam như một cách chống lại sự bành trướng của Liên Xô trong khu
vực. Chính thức thì Mỹ khuyên Trung Quốc không nên đánh Việt Nam, thể
hiện qua một lá thư tay của Tổng thống Carter gửi cho Đặng. Trên thực tế
thì Mỹ ủng hộ cuộc xâm lược của Trung Quốc khi đồng ý cung cấp thông
tin vệ tinh về hoạt động của quân đội Liên Xô dọc biên giới Xô - Trung
và các thông tin tình báo khác. Sau khi chiến sự diễn ra, Cố vấn an ninh
quốc gia Brzezinski mỗi buỗi chiều gặp đại sứ Trung Quốc Sài Trạch Dân
để chuyển giao các thông tinh tình báo này.
Tóm
lại, nếu Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào năm 1977 thì sẽ
không có chuyện Việt Nam ký hiệp ước đồng minh quân sự với Liên Xô và
như vậy Trung Quốc sẽ không có cớ để thuyết phục được Mỹ ủng hộ Trung
Quốc đánh Việt Nam với tư cách xung kích của “Đế quốc xã hội Liên Xô”
trong khu vực. Mà không có sự ủng hộ của Mỹ thì chắc chắn Trung Quốc
không đủ tự tin để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Cũng
như vậy, cho dù nhu cầu cứu nguy cho đồng minh Khme Đỏ ở Căm Pu Chia có
thúc bách, Trung Quốc sẽ không dám tiến hành một cuộc chiến tranh quy
mô lớn chống Việt Nam nếu quan hệ Việt – Mỹ đã được bình thường hóa.
Thực vậy, Mỹ luôn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, kể cả
trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam mang màu sắc ý thức hệ. Điều này có
nghĩa trong thời hậu Chiến tranh Việt Nam, lý thuyết Domino không trước
thì sau sẽ được phục hồi với nội dung mới là ngăn chặn Trung Quốc thâu
tóm Đông Nam Á. Với tâm thức đó, Mỹ chắc chắn sẽ phản đối một cuộc chiến
tranh như vậy của Trung Quốc, điều này tất làm chậm tiến trình bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước mà Trung Quốc coi là cốt tử cho chương
trình hiện đại hóa của họ. Nói cách khác, Trung Quốc sẽ không dại gì
đánh đổi tương lai của bản thân để lấy sự tồn tại của Khme Đỏ.
Bài
học rút ra là một quan hệ ngoại giao, và hơn thế nữa, một quan hệ đồng
minh quân sự thiết lập với Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam tránh được, hay chí
ít đánh bại các cuộc xâm lược, bất luận trên đất liền hay trên biển,
được phát động bởi một Trung Quốc không ngơi tham vọng lãnh thổ.
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
*
Ghi chú: Tác giả là một nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị
Việt Nam, đã ba lần khởi kiện Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng về các
quyết định trái Hiến pháp và pháp luật.
(VOA)
Không có nhận xét nào