Cuối năm 1969, Nhà Trắng vốn đã bận
rộn lại càng trở nên hoang mang hơn sau khi mẩu tin của nhà báo trẻ
Seymour Hersh được đăng tải trên hàng chục tờ báo Mỹ. Vụ lính Mỹ thảm
sát dân thường ở Mỹ Lai (Quảng Ngãi, Việt Nam) bắt đầu lộ diện và gây
sốc trên toàn quốc.
“Chúng ta phải làm thế nào đây?” – Nixon hoang mang hỏi.
Ông
đã có quá đủ mối lo ở trong nước. Việc để xảy ra thêm một vụ bê bối
khác ở chiến tranh Việt Nam không phải là thứ mà ông muốn nghe lúc này.
Các
lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ, các chuyên viên cấp cao của Nhà Trắng căng
thẳng bàn bạc để tìm cách giải thích thông tin về vụ việc với công luận
Mỹ.
Ngày
21/11, trong một cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia (National
Security Council), cố vấn Henry Kissinger nhấn mạnh rằng Nhà Trắng cần
phát triển một kế hoạch đối phó, thiết lập chính sách báo chí truyền
thông, và phải cố gắng duy trì bằng được một đường hướng thống nhất
trong mọi phản hồi để ứng phó với báo chí và dư luận trong tương lai
gần.
Mười
ngày sau, ngày 1/12, Nhà Trắng lập ra một đội đặc nhiệm cổ cồn trắng
với các nhiệm vụ hạ uy tín của nhân chứng, mà theo ghi chép của Chánh
văn phòng Nhà Trắng “Bob” Haldeman, bao gồm sử dụng các chiêu bẩn nếu có
thể, và bảo đảm rằng những nhân viên công vụ có thẩm quyền liên quan
không được phát ngôn hớ hênh khi trả lời báo chí.
Song
mọi nỗ lực của những chuyên gia truyền thông tốt nhất thế giới đều
không có tác dụng trong một môi trường tự do thông tin và báo chí mạnh
mẽ như ở Hoa Kỳ. Và sự kiện nhanh chóng trở thành cơn ác mộng truyền
thông kinh hoàng nhất mà một tổng thống Hoa Kỳ có lẽ đã từng phải dàn
xếp.
Hình ảnh về vụ thảm sát Mỹ Lai trên một tờ báo Mỹ, ngày 20/11/1968. Ảnh: Chưa rõ nguồn. |
Kém cỏi, rệu rã, uất ức, tàn độc
Mọi chuyện bắt đầu từ ngày 16/3/1968.
Đại
đội Charlie, hay đại đội C (Charlie company – C company) khi đó nhận
được lệnh thực hiện một chiến dịch tìm và diệt quen thuộc trong chiến
tranh Việt Nam. Đối tượng là một ngôi làng tại Mỹ Lai – phía Bắc tỉnh
Quảng Ngãi, thường được ghi trong bản đồ chiến thuật quân sự Hoa Kỳ với
tên gọi “PinkVille”. Đây là một khu vực mà lính Mỹ thời kỳ này ngán ngẩm
gọi là “India country” – ám chỉ rằng chúng nằm trong sự kiểm soát quân
sự gần như tuyệt đối của quân Việt Cộng, và các khu vực dân cư thân
cộng.
C
Company là một đại đội chắp vá nếu xét theo tiêu chuẩn Mỹ. Vừa thành
lập không lâu, vào giữa năm 1967, đại đội này đã được thông báo rằng họ
sẽ phải triển khai tác chiến ở Việt Nam. Sau đó, họ tham gia vào một
chương trình huấn luyện rút gọn diễn ra vỏn vẹn trong tháng 11 năm 1967.
Một tháng huấn luyện, ngoài các kỹ năng chiến đấu, cũng bao gồm cả
chương trình đào tạo cách đối xử với tù binh chiến tranh, các điều khoản
của bốn Công ước Geneva về luật nhân đạo quốc tế, khái niệm thường dân
cũng như Bộ Nguyên tắc tham chiến của Hoa Kỳ (USA Rules of engagement).
Người
chỉ huy đại đội là William L. Calley Jr., thường được gọi với biệt danh
Calley ‘Cùn’ (‘Rusty Calley’). Đây là nhân vật mà tướng William C.
Westmoreland, trong cuốn tự truyện 1976 của mình (Bản báo cáo quân nhân –
A Soldier Reports), khẳng định sẽ không bao giờ có được một chân sĩ
quan nếu Nghị viện Hoa Kỳ không táy máy can thiệp vào hoạt động tuyển
quân của Lầu Năm Góc.
Ông
chỉ trích chính sách lùi thời hạn nhập ngũ cho các sinh viên đại học
khiến cho quân đội Hoa Kỳ mất đi nguồn cung quân nhân chất lượng họ
thường có, và buộc phải hạ tiêu chuẩn tuyển quân.
Về
Calley, anh ta có dáng vẻ bề ngoài kinh điển của thanh niên vùng ngoại ô
Florida thời kỳ này – cao khoảng 1m60, nhìn không khỏe mạnh lắm và rất
khó đoán tâm trạng. Không có gì nổi trội khi còn học trung học, Calley
chật vật qua được một vài lớp ở trường cao đẳng cộng đồng địa phương
trước khi bắt đầu chuỗi ngày lang thang nhảy việc. Vì không còn tiền,
nên khi nhận thư trình diện để được đánh giá lại cho việc tuyển quân
nhập ngũ, Calley tham gia một cách hào hứng đến bốc đồng vào quân đội
Hoa Kỳ.
Tháng
3/1967, chỉ tròn một năm trước vụ thảm sát Mỹ Lai, Calley mới bắt đầu
được đào tạo ở trường sĩ quan quân đội Hoa Kỳ (Officer Candidate School –
OCS), và tốt nghiệp hạng… 120/156. Mặc dù thiếu trình độ và được đào
tạo một cách vội vã, Calley lại trở thành chỉ huy trưởng của đại đội C
với một cái nhìn đơn giản về chiến tranh Việt Nam: kẻ nào gắn với Việt
Cộng đều là kẻ thù. Calley kể lại rằng ở trường sĩ quan, nhiều cựu chiến
binh chia sẻ rằng khi tham chiến tại Việt Nam, họ không phân biệt được
giữa kẻ địch và dân thường.
Việc
phe Việt Cộng tham chiến một cách thiếu quy củ và không tuân thủ các
nguyên tắc về trang phục và trang bị vũ khí nhằm phân biệt thường dân
(civilian) và người tham chiến (combatant), cùng kiểu chiến tranh du
kích, gây ra ảnh hưởng tâm lý nghiêm trọng lên một số quân nhân Hoa Kỳ.
Calley là một trong số đó. Anh tả kể rằng, “Kẻ nào ở đó cũng là Việt
Cộng cả. Người già, đàn bà hay thiếu niên hay trẻ em đều là Việt Cộng.
Trong bụng đàn bà Việt Cộng, tôi cá là có đến hàng ngàn tên Việt Cộng
con sẵn sàng ra đời.
Môi
trường của chiến tranh Việt Nam rõ ràng không giúp ích gì để thay đổi
cách suy nghĩ của Calley. Sau chưa đầy hai tháng làm công tác hậu cần
cho các đội khác, đại đội Charlie mới chỉ tiếp cận trực tiếp với quân
Việt Cộng một tới hai lần là nhiều nhất, thế nhưng đã chịu thương vong
từ hoạt động bắn tỉa, bẫy mìn, và các bẫy chông treo. Vì thế, sự kinh
hoàng, ức chế, tức giận và thù hận không thể giải tỏa ở đại đội C là
điều dễ hiểu.
Tuy
nhiên, trường hợp của Mỹ Lai rõ ràng không phải là một trong số đó.
Chiến dịch diễn ra mà không có phản kháng, không phát hiện một thành
viên phe Việt Cộng nào, và không hề có một tổn thất nào được ghi nhận
lại từ đại đội Charlie. Người bị thương duy nhất của đại đội là một binh
sĩ tự bắn vào chân của mình để không phải tham gia vào cuộc thảm sát
(tuy nhiên cũng có tài liệu cho rằng người này chỉ vô tình bắn trúng
chân).
Theo
bình luận của bản thân nhà báo Seymour Hersh, Mỹ Lai là hậu quả của một
chuỗi những sai lầm: từ sai lầm về tình báo cho rằng tiểu đoàn 48 của
quân Việt Cộng đang tiếp tục hoạt động tại Sơn Mỹ, cho đến niềm tin lệch
lạc của nhiều binh lính tham gia chiến dịch rằng những người dân ở các
ngôi làng tại Sơn Mỹ như Mỹ Lai đều là những kẻ có cảm tình với cộng sản
hay sự quả quyết rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sẽ chấp thuận bất
kỳ hành vi chiến tranh nào mà quân đội Hoa Kỳ thực hiện trong lãnh thổ
của họ.
Tất
cả mọi thứ tệ hại tập hợp lại trong một đơn vị: một nhóm quân nhân
không được đào tạo – giáo dục kỹ lưỡng, khao khát trả thù, tham vọng lập
công bằng cách đếm xác, và một kẻ chỉ huy lệch lạc không đủ năng lực.
Kết quả là hơn 500 thường dân bị tra tấn, cưỡng hiếp, và cuối cùng bị
giết bằng những cách thức phi nhân tính, trong đó nạn nhân chủ yếu chỉ
là người già, phụ nữ, và trẻ em.
Tờ Washington Post đưa tin Williams Calley bị kết án ngày 30/3/1971. Ảnh: Seatle Times. |
Sự bối rối của công lý
Rất
khó để người dân Mỹ tại thời điểm đó tin là điều này thật sự đã diễn
ra. Với họ, chỉ 20 năm trước thôi, quân đội Hoa Kỳ còn có thể được xem
là một quân đội hoàn toàn chính nghĩa, phụng sự lẽ phải và công bình. Và
người ta chỉ có thể tìm thấy những tội ác chiến tranh ở một nơi xa xôi,
do những tên phát xít điên cuồng hay đám lính vùng viễn Đông man rợ gây
ra.
Mỹ Lai vấy bẩn lên hình tượng đẹp đẽ đó của lính Mỹ.
May
mắn là xã hội, môi trường chính trị và bản thân nhà nước Hoa Kỳ có tính
đa nguyên, nên vụ thảm sát vẫn còn cơ hội được làm sáng tỏ trước công
luận Mỹ.
Do
đó, không khó để người Mỹ thừa nhận và gọi tên thứ mà quân đội nước này
đã thực hiện tại Mỹ Lai – một tội ác chiến tranh kinh hoàng. Bản thân
quân đội Hoa Kỳ đã khởi tố Calley và tuyên án tù giam với kẻ thủ ác.
Tuy
nhiên, sự thật trần trụi về Mỹ Lai có lẽ khiến cho chính quyền Nixon
quá bối rối. Thông tin về Mỹ Lai chỉ được giới hạn ở tên và chức vụ của
Calley, cùng với tội danh ‘giết người’ mơ hồ, được giải thích bằng cụm
từ ‘giết hơn một thường dân’ còn mơ hồ hơn thế. Hoa Kỳ đã quá quen với
việc được xem là vị cứu tinh, không phải kẻ tội đồ. Vậy nên tôi có thể
hiểu vì sao Nixon muốn bảo vệ danh tính quốc gia để cứu rỗi hình ảnh của
quân đội Hoa Kỳ, cùng những điều mà xã hội Hoa Kỳ muốn đại diện.
Nhưng sự cố chấp quyền lực của người Mỹ khiến họ không thể thật sự chuộc tội hay sám hối.
Hoa
Kỳ từng là một trong những thành viên sáng lập quan trọng nhất của Tòa
án Hình sự Quốc tế (ICC), Tòa Nuremberg, cũng như Toà án Quân sự Quốc tế
vùng Viễn Đông (IMTFE). Họ là người ủng hộ hào phóng và mạnh mẽ nhất,
là nhân tố năng động nhất của các tòa hình sự quốc tế khác như Tòa án
Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ (ICTY) hay Tòa án Hình sự Quốc tế về Rwanda
(ICTR).
Nhưng
đến khi nhận thấy các quân nhân, tướng lĩnh và quan chức Hoa Kỳ có khả
năng trở thành đối tượng của các tòa án này, Hoa Kỳ lại trở mặt để giữ
lấy ‘chủ quyền quốc gia’ của mình.
Năm
2000, Tổng thống Bill Clinton ký ban hành Đạo luật Ủy nhiệm Quan hệ
Quốc tế (Foreign Relations Authorization Act) ngăn chặn các chính phủ hỗ
trợ tài chính cho Tòa án Hình sự Quốc tế (mục 705). Đạo luật đồng thời
cũng nghiêm cấm mọi hình thức dẫn độ công dân Mỹ đến một quốc gia thứ ba
có khả năng chuyển giao công dân này cho toà án này.
Cho
đến nay, thảm sát Mỹ Lai vẫn chưa có được một phiên tòa quốc tế thật sự
để giành lại công lý với đúng tên gọi của tội đã phạm: tội ác chiến
tranh (war crime). Và có lẽ ngày đó cũng còn rất xa, xa đến nỗi có thể
không bao giờ thực hiện được.
Đây
cũng không chỉ riêng Hoa Kỳ. Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Israel… những quốc
gia xuất khẩu vũ khí và hoạt động quân sự nhiều nhất thế giới, đến giờ
vẫn từ chối trở thành thành viên chính thức của ICC.
Điều
họ cần nhận ra là, pháp luật nhân đạo quốc tế không phải là một công cụ
chính trị. Nó là rào cản duy nhất ngăn cản loài người trở lại con đường
man rợ mà Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến đã trải qua. Nếu những tội ác này
không bị trừng phạt một cách đúng chuẩn mực, chúng ta sẽ lại tiếp tục
rơi vào vòng xoáy của sự thoái thác, biện bạch, và tội ác của ngày xưa
mà thôi.
(Luật Khoa)
Không có nhận xét nào