Bài viết so sánh chính sách đối ngoại
của Trung Quốc và Mỹ, cụ thể là các hình thức hội nhập kinh tế và cách
tiếp cận địa chính trị tại Đông Nam Á. Các tác giả so sánh động cơ và lý
do các cường quốc lớn và hạng hai trong khu vực chấp nhận hoặc tranh
cãi về các chính sách của Mỹ và Trung Quốc.
Cạnh tranh ảnh hưởng Trung - Mỹ tại Đông Nam Á |
Tóm tắt
Trung
Quốc và Mỹ, hai cường quốc và là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đang
cạnh tranh ảnh hưởng và vị trí lãnh đạo ở khu vực Đông Nam Á thông qua
các kế hoạch hội nhập và cách tiếp cận địa chính trị khác nhau. Bài viết
so sánh chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Mỹ, cụ thể là các hình
thức hội nhập kinh tế và cách tiếp cận địa chính trị tại Đông Nam Á. Các
tác giả so sánh động cơ và lý do các cường quốc lớn và hạng hai trong
khu vực chấp nhận hoặc tranh cãi về các chính sách của Mỹ và Trung Quốc.
Mỹ ở vị thế có lợi hơn trong việc thể hiện sức mạnh quân sự ở khu vực
và nhấn mạnh tới sự phát triển của con người. Trong khi đó, Trung Quốc
đề xuất cách tiếp cận tập trung vào đầu tư cơ sở hạ tầng và sử dụng các
biện pháp quân sự trong tranh chấp Biển Đông.
1. Giới thiệu chung
Với
các động lực của nền kinh tế và chính trị quốc tế, hai cường quốc toàn
cầu là Mỹ và Trung Quốc sẽ mở rộng ảnh hưởng ra phạm vi toàn cầu. Sau
khi Mỹ thành công ở Trung Đông, đặc biệt là tại Iraq và Afghanistan
trong chiến lược kiềm chế chủ nghĩa khủng bố và bảo vệ lợi ích của Mỹ
bằng cách tiếp cận gián tiếp và trực tiếp (Jeffrey và Eisenstadt, 2016:
14-16), Mỹ sẽ đi tìm các mục tiêu mới. Chính sách kiềm chế truyền thống
vẫn đóng vai trò chủ chốt trong quá trình thiết kế và xây dựng chính
sách đối ngoại của Mỹ. Noam Chomsky lập luận rằng chiến lược của Mỹ ở
Trung Đông là giành được các mục tiêu tại “Khu vực Đại chiến lược”
(Chomsky, 1991: 14-31). Tuy nhiên, Mỹ vẫn cần thực hiện một nhiệm vụ,
đặc biệt là kiến tạo các quốc gia dân chủ ổn định ở Trung Đông. Trong
khi đó, Iraq, Afghanistan và hiện tại là Syria không thể triển khai các
mục tiêu dân chủ và vẫn dễ bị tổn thương do sự tồn tại của Nhà nước Hồi
giáo Iraq và Syria (ISIS).
Mặt
khác, Trung Quốc tiếp tục nâng cao hình ảnh ở châu Phi (van Dijk,
2009b: 10-11). Chính sách ngoại giao kinh tế của Trung Quốc tập trung
vào viện trợ tài chính và đầu tư khiến các nước châu Phi ngày càng phụ
thuộc vào Trung Quốc. Tới năm 2015, 15% khối lượng thương mại của các
nước châu Phi là với Trung Quốc (Thrall, 2015: xiii). Nguyên tắc duy
nhất Trung Quốc sử dụng là không can thiệp vào chính trị nội bộ và quân
sự khi xây dựng quan hệ với các nước châu Phi. Trung Quốc cũng hưởng lợi
từ khía cạnh an ninh với các khoản đầu tư khổng lồ vào 20 quốc gia thất
bại ở châu Phi (ibid.: xv). Thêm vào đó, các nước châu Phi cũng mong
muốn có các dự án kinh tế với Trung Quốc do đang phải gánh chịu các cuộc
xung đột trong nước trong một thời gian dài và cần ổn định để tránh
xung đột trong tương lai. Hiện tại, dù sự thành công của Trung Quốc hiện
không đe dọa các lợi ích của Mỹ ở châu Phi nhưng về dài hạn đây có thể
là một thách thức to lớn với Mỹ và ở khía cạnh đó, điều này có thể tạo
ra thêm nguyên cớ va chạm.
Căn
cứ vào tình hình hiện nay giữa Trung Quốc và Mỹ, Gaiser và Kovae (2012)
chỉ ra rằng tình trạng phân cực (polarity) một lần nữa có thể là đặc
trưng của quan hệ quốc tế và có khả năng hình thành tình trạng phân cực
Chiến tranh Lạnh mới. Sau năm 1990, Mỹ không thể duy trì lâu dài tình
trạng đơn cực. Tình trạng đơn cực chỉ kéo dài tới năm 2006 và sụp đổ vào
năm 2008 do khủng hoảng Tài chính Toàn cầu (Gaiser và Kovae, 2012:
49-63). Trong khi đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc với vị thế là một cường
quốc mới nổi trong nền kinh tế toàn cầu chỉ khiến cuộc cạnh tranh chính
trị giữa Trung Quốc và Mỹ thêm căng thẳng. Từ phía Mỹ, một số nhà khoa
học chính trị như Huntington (1997) và Fukuyama (2006) vẫn bảo vệ quan
điểm khẳng định sự chiến thắng của chủ nghĩa tư bản và văn minh phương
Tây so với các giải pháp kinh tế và chính trị khác trong việc định hình
tư duy của các công dân toàn cầu, những người ủng hộ sự mở rộng của Mỹ.
Những định nghĩa và ý tưởng này ủng hộ sự mở rộng của Mỹ và góp phần
biện minh cho chính sách an ninh của Mỹ, đặc biệt là chính sách gia tăng
ảnh hưởng tại khu vực. Mặt khác, Trung Quốc có tham vọng mở rộng ảnh
hưởng trong nền chính trị quốc tế và trở thành một chủ thể toàn cầu.
Chiến lược “Vươn ra toàn cầu” bắt nguồn từ năm 2001 là nền tảng cho nỗ
lực trở thành nhà đầu tư số một thế giới của Trung Quốc (Thrall, 2015:
10). Sau khi Trung Quốc trở thành cường quốc chủ chốt trong nền kinh tế
quốc tế, nước này cũng có thể tăng cường khả năng quân sự và chính trị.
Gần
đây, khả năng xung đột tiềm tàng giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra ở Đông
Nam Á, một khu vực được kỳ vọng tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Phần lớn các chuyên gia cho rằng Đông Nam Á là khu vực ổn định nhất với
tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và các quốc gia khu vực có thể tiếp
tục chung sống hòa bình (Archarya, 2014; Narine, 2002: 2). Cam kết mạnh
mẽ đối với các giải pháp hòa bình có thể giúp ngăn ngừa tình trạng thuộc
địa hóa và bạo lực xảy ra trong quá khứ, từ đó tạo nên nền tảng vững
chắc cho ổn định và hoà bình trong khu vực. Do đó, khu vực này sẽ là một
mục tiêu mới của cả hai siêu cường với sự hỗ trợ từ các nước đồng minh
của mình.
Là
một phần trong chiến lược xây dựng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Trung Quốc
và Mỹ tập trung vào khía cạnh kinh tế và địa chính trị. Khía cạnh đầu
tiên có tầm quan trọng trong nền kinh tế là thương mại quốc tế. Sau khi
toàn cầu hóa và công nghệ phát triển vào những năm 90, biên giới quốc
gia trở nên ít quan trọng hơn. Các rào cản thương mại, đặc biệt là thuế
thương mại được cắt giảm đáng kể vì những nhân tố này bị xem là cản trở
dòng thương mại. Xu hướng này đã thúc đẩy các nước Đông Nam Á thành lập
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nhằm xây dựng hội nhập kinh tế
khu vực: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) năm 2015.
Hiệp
định thương mại tự do của AEC không giới hạn trong thương mại nội khối
mà có mục tiêu xây dựng thỏa thuận tự do thương mại toàn cầu nhằm xóa bỏ
rào cản thương mại ở phạm vi toàn cầu. Thông qua sáng kiến này, Trung
Quốc và Mỹ thâm nhập vào khu vực bằng các sáng kiến thúc đẩy thương mại
quốc tế trong ASEAN. Trung Quốc đề xuất RCEP (Đối tác Kinh tế Khu vực
Toàn diện) và Mỹ đề xuất TPP (Đối tác Xuyên Thái Bình Dương) (Ye, 2015:
206-224). Thậm chí không phải tất cả các nước ASEAN tham gia vào các
chiến lược này. Xu hướng này cho thấy phần lớn các nước ASEAN đều có lợi
ích trong những sáng kiến này trong khi toàn cầu hóa buộc các nước
ASEAN tận dụng các hình thức hội nhập gần gũi hơn. Tới nay, RCEP đã thu
hút được một số quốc gia từ ASEAN kể từ khi Con đường Tơ lụa thay thế
hoặc cạnh tranh của TPP. Theo quan điểm thông thường về Thái Bình Dương,
TPP bao phủ phạm vi và mức độ rộng lớn hơn và sẽ là thỏa thuận thương
mại tự do lớn nhất khi được hiện thực hóa. Tuy nhiên, chính sách bất
định của Trump khi xóa bỏ thỏa thuận này đã không thể tạo nên những đóng
góp đáng kể và nhanh gọn hơn cho lợi ích của Mỹ và TPP bắt đầu mất dần
chức năng.
Nằm
giữa hai siêu cường, các quốc gia ASEAN có một số lựa chọn: chọn một
bên, chọn cả hai bên hoặc tự xây dựng các cơ chế và trở thành các nước
tiên phong của một thỏa thuận thương mại tự do thay thế bên cạnh TPP và
RCEP. Trong ngắn hạn, lựa chọn thứ ba là rất khó khăn và hầu như là
không thể. Do đó, trong vị trí hiện tại, các nước ASEAN sẽ tìm kiếm các
thỏa thuận nhất định có khả năng thúc đẩy sự phát triển trong mỗi quốc
gia. Tuy nhiên các nước này sẽ buộc phải chọn một hoặc cả hai phe.
Trong
lĩnh vực quân sự, Mỹ và Trung Quốc vẫn đang đấu tranh để có được nhiều
đồng minh hơn ở Đông Nam Á. Đặc biệt, các nước này muốn bảo vệ lợi ích
an ninh quốc gia và nguồn cung tài nguyên từ khu vực này. Vấn đề nảy
sinh là Trung Quốc đang xử lý tranh chấp Biển Đông với 4 nước ASEAN
(Rowa, 2005: 414-436), trong khi Mỹ là quốc gia vẫn bị xem là không thể
tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vốn là nguyên tắc cốt lõi của các
nước ASEAN, đặc biệt là trong vấn đề dân chủ và nhân quyền (Mauzy và
Job, 2007: 822-641). Cả hai nước dường như vẫn mâu thuẫn với phần lớn
các nước ASEAN về vấn đề giữ ổn định và an ninh.
Mặc
dù đôi khi khu vực này có những giai đoạn thăng trầm, các nước ASEAN
vẫn tổ chức các hội nghị thượng đỉnh thường niên và đưa ra các thỏa
thuận trong hầu hết các lĩnh vực, nhấn mạnh nguyên tắc không can thiệp,
phương cách và các giá trị của ASEAN. Thêm vào đó, đặc trưng cơ bản của
ASEAN là luôn chào đón đối thoại và trao đổi.
Bởi
tầm quan trọng của khu vực và quyết tâm thống trị nền chính trị thế
giới và bảo vệ lợi ích quốc gia, Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh vị trí
lãnh đạo trong khu vực thông qua hai nhân tố chính là: quân sự và kinh
tế.
Affabile Rifawan
Nguyễn Thị Linh (dịch)
Trần Quang (hiệu đính)
Đọc toàn bộ bài dịch tại đây.
*
Affabile Rifawan, Thạc sĩ Khoa học (Kinh tế học, Đại học Padjadjaran),
là giảng viên và nghiên cứu viên của Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học
Padjadjaran, Indonesia. Trọng tâm nghiên cứu của ông là lãnh đạo toàn
cầu, nghiên cứu an ninh và nền kinh tế chính trị. Phạm vi giảng dạy là
Phát triển Quốc tế, Quan hệ Quốc tế ở Mỹ và Phương pháp Định lượng.
(Email: a.rifawan@unpad.ac.id).
*
Novi Amelia, Thạc sĩ Khoa học Quản lý (Viện Công nghệ Bandung), là
giảng viên trường Quản lý và Kinh doanh, Viện Công nghệ Bandung. Trọng
tâm nghiên cứu và phạm vi giảng dạy là xúc tiến thị trường và chiến lược
kinh doanh. (Email: novil.amelia@sbm-itb.ac.id).
Bài viết được đăng trên Contemporary Chinese Political Economy and Strategic Relations: An International Journal.
(Nghiên cứu Biển Đông)
Không có nhận xét nào