Lý Thường Kiệt (1019-1105) là một
trong những vị tướng lãnh vĩ đại nhất của Việt Nam. Ông nguyên họ Nguyễn
nhưng vua Lý Thánh Tông cho đổi sang họ Lý để tỏ lòng quý mến và biết
ơn. Ông cũng được phong là “thiên tử nghĩa đệ” [天子義弟] tức là em nuôi của
nhà vua.
Năm
35 tuổi ông được nhà vua chỉ định thi hành một trọng trách, đó là mang
quân đi bình định vùng Thanh-Nghệ. Sau khi sứ mệnh to lớn ấy thành công
mỹ mãn, tướng Lý Thường Kiệt trở thành vị tể tướng của triều đình với
toàn quyền về hành chánh và quân sự.
Khi
nghe tin nước Tàu đang toan tính đánh chiếm Đại Việt (tên của Việt Nam
thời đó), ông khuyên vua Lý Nhân Tông, một ấu quân mới lên ngôi, nên
đánh phủ đầu để triệt tiêu ý đồ xâm lăng của nước Tàu. Với sự ủy nhiệm
của nhà vua, tể tướng Lý Thường Kiệt và quân sĩ đánh phá ba châu lớn của
nước Tàu ở sát biên thùy Việt Nam – châu Ung thuộc tỉnh Quảng Tây, châu
Khâm và châu Liêm thuộc tỉnh Quảng Đông.
Ở
bất cứ nơi nào Lý tể tướng và binh sĩ đặt chân đến, ông đều cho phổ
biến những “đại cáo” kết tội Vương An Thạch (tể tướng Tàu) áp bức dân
Tàu, và tuyên bố quân của vua nước Việt đến để chặn đứng chính sách cai
trị ác độc mới ban hành của Vương An Thạch.
Vô
cùng tức giận, Vương An Thạch ra lệnh một đạo binh lớn – dưới quyền vài
tướng lãnh, cùng với quân lính của hai đồng minh Chiêm Thành và Chân
Lạp hỗ trợ – xâm lược Đại Việt. Binh sĩ dưới quyền chỉ huy của tướng Lý
Thường Kiệt giao tranh dữ dội với quân Tàu ven sông Như Nguyệt ở phía
bắc Thăng Long. Trong vòng một tháng, hai bên đều thiệt hại quân số nặng
nề.
Để
cho binh sĩ lên tinh thần chiến đấu, một buổi tối Lý Thường Kiệt cho
một người vào trong một đền bên bờ phía nam của sông Như Nguyệt để ngâm
vang bốn câu thơ mà tể tướng Lý đã sáng tác bằng chữ Hán. Nghe xong bốn
câu thơ uy nghiêm huyền bí đó, địch quân sợ hãi đến nỗi phải tan hàng bỏ
chạy khỏi chiến trường.
Qua
bốn câu xác quyết ngắn gọn và hùng dũng, bài tứ tuyệt này của Lý Thường
Kiêt có thể được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Đại Việt,
khẳng định đất nước của dân Việt hoàn toàn độc lập với quốc gia hàng xóm
gian manh phía bắc.
Dưới
đây, xin được vinh danh bản tuyên ngôn độc lập đó bằng cách trình bày
bài tứ tuyệt oai phong của Lý Thường Kiệt qua bốn thứ văn tự : (1) Hán
tự phồn thể nguyên tác, (2) Hán-Việt viết theo quốc ngữ, (3) Việt ngữ,
và (4) Anh ngữ. Mục đích của điều này là để cho người Tàu biết Hán tự
phồn thể và những người ngoại quốc khác sử dụng tiếng Anh như một
“lingua franca” hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa của bản tuyên ngôn lịch sử
này của dân Việt chúng ta:
南國山河
南國山河南帝居
截然定分在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看取敗虛
NAM QUỐC SƠN HÀ
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
Sông núi nước Nam, quyền vua Nam
Hiển nhiên Thiên định hẳn không lầm
Giặc bay trái mệnh đòi xâm chiếm
Thảm bại trông kìa, hỡi lũ tham
(Bản dịch của Nguyễn ĐăngThục)
THE SOUTHERN LAND
The Southern Emperor rules the Southern Land
Our destiny is writ in Heaven’s Book
How dare ye bandits trespass on our soil
Ye shall meet your undoing at our hands
(Translation by Huỳnh Sanh Thông)
-----------------
THƯ TỊCH
DeFrancis, John (ed) (1996). ABC Chinese-English Dictionary.Honolulu: University of Hawaii Press.
Huỳnh Sanh Thông (1996). An Anthology of Vietnamese Poems. New Haven, CT: Yale University Press.
Nguyễn Đăng Thục (1967). Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam. Saigon: Bộ Văn Hóa Giáo Dục.
Trần Trọng Kim (1971). Việt Nam Sử Lược. Saigon: Bộ Văn Hóa Giáo Dục.
(Diễn Đàn Thế Kỷ)
Không có nhận xét nào