I. Bản chất của chế độ CSVN
Cho
dù được tô điểm bởi bất kỳ mỹ từ nào chăng nữa, chế độ CSVN là một chế
độ độc tài kể từ khi đảng này cướp chính quyền và cai trị cho đến nay.
Sự
ra đời của đảng CSVN gắn liền với Hồ Chí Minh, là một người ngay từ đầu
cho đến lúc chết vẫn luôn luôn thuần phục Tàu cộng. Yếu tố sống còn và
khả năng độc quyền cai trị của đảng CSVN lệ thuộc vào Tàu cộng. Lệ thuộc
từ đường lối chính trị, phương thức cai trị cho đến tài lực, vật lực
lẫn kiến năng. Lệ thuộc từ trong khói lửa chiến tranh như Điện Biên Phủ,
xâm lược VNCH sang đến những cuộc chiến mà kẻ thù là nhân dân như Cải
cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm... Tất cả, từ lãnh đạo cho đến mọi
hoạt động, đều mang dấu ấn made in China.
Do
đó, chế độ CSVN không chỉ là một chế độ độc tài. Nó là một thể chế vừa
độc tài vừa nô lệ ngoại bang trong suốt chiều dài cuộc sống của nó.
Với bản chất độc tài và nô lệ, điều gì đã xảy đến với chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?
Nếu
sau thế chiến thứ 2, Hồng quân Nga tiến vào Đông Âu và thiết lập những
nhà nước cộng sản bù nhìn thì sau khi Liên bang Sô Viết sụp đổ, mỗi quốc
gia Đông Âu đều có thể tranh đấu để khôi phục chủ quyền cho những vùng
đất nếu vẫn còn bị Nga chiếm đóng. Những thể chế độc tài cộng sản còn
sót lại như Bắc Triều Tiên, Cu Ba dù tồi tệ đến bao nhiêu vẫn chưa để
một tấc đất của tổ quốc họ rơi vào tay ngoại bang.
Ngược
lại, đối với Việt Nam, điều tệ hại là những mất mát không phải vì bị
cướp, hoặc vì hết lòng chiến đấu mà không đủ sức bảo vệ. Tổ quốc Việt
Nam bị mất đất, mất biển là do chính đảng CSVN ký kết nhường, đổi chác,
bán. Những ngòi bút ký của lãnh đạo đảng CSVN vào Công hàm 1958, Hiệp
định Biên Giới Việt Trung, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, Tuyên bố
chung về Boxit Tây Nguyên... và còn nhiều văn bản khác - đặc biệt là
Hiệp ước Thành Đô, vẫn nằm trong vòng bí mật đã công nhận nhiều phần
lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam thuộc về Tàu cộng. Những chữ ký của
những lãnh đạo đảng cộng sản, tự phong là "đại diện quốc gia" đã trao
cho Tàu cộng một sức mạnh gấp ngàn lần xe tăng, đại pháo, sư đoàn trong
cuộc bành trướng của đại Hán: "thu tóm mà không cần phải xâm lăng".
Những chữ ký này sẽ làm cho dân tộc Việt Nam gặp khó khăn gấp trăm lần
khi phải tranh đấu để lấy lại những gì bị mất vì chính phủ ký kết xác
nhận nó thuộc về ngoại bang, so với nỗ lực đứng lên giành lại những gì
bị mất vì hành vi xâm lược.
Do
đó, chế độ CSVN không chỉ là một chế độ vừa là độc tài vừa nô lệ cho
ngoại bang. Chính xác hơn, nó là một chế độ độc-tài-bán-nước. Đây là bản
chất, là căn cước của cộng sản Việt Nam. Và thực chất của tình trạng
mất đất, mất biển đã không đến từ xâm lăng mà đến từ một cuộc buôn bán
đổi chác dài hạn. Thủ phạm chính không phải là người mua, kẻ nhận mà
chính là kẻ bán, người dâng.
II. Độc-tài nuôi bán-nước và bán-nước nuôi độc-tài
Độc-tài
nuôi bán-nước: Nếu Việt Nam là một nước dân chủ, đa đảng, tam quyền
phân lập thì đã không có Công hàm bán nước 1958, Hiệp định Biên giới,
Hiệp định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp ước Thành Đô và nhiều ký kết khác. Sẽ không
có Tổng bí thư một đảng cùng với mười mấy tên trong Bộ Chính trị toàn
quyền quyết định tương lai của dân tộc và tùy tiện sắp xếp biên giới của
quốc gia với ngoại bang. Sẽ không có những văn kiện với chữ ký của 2
tổng bí thư của 2 đảng, là những người không được dân bầu, nhưng lại
toàn quyền quyết định những vấn đề có tầm ảnh hưởng vận mạng quốc gia.
Sẽ không có một Quốc hội bù nhìn toàn là đảng viên cộng sản ngồi đọc và
chỉ biết được nội dung - hay một phần nội dung - sau khi văn kiện đã
được ký. Sẽ không có tình trạng cả nước không biết rõ toàn bộ nội dung
những hiệp định được ký kết, không nắm chắc đất nước đã bị mất những gì,
mất bao nhiêu. Do đó độc tài dẫn đến mất nước vì độc tài cai trị đã nắm
vị trí độc quyền bán nước.
Bán-nước
nuôi độc-tài: Đảng CSVN sẽ không thể độc tài cai trị cho đến ngày nay
nếu trong suốt nhiều thập niên liền không sống bằng những hỗ trợ trên
mọi phương diện từ Tàu cộng. Đảng không tồn tại nếu không mang căn cước
bán-nước bên cạnh tờ khai sinh độc-tài. Để độc tài, cộng sản Việt Nam
phải bán nước. Lý do:
Một
guồng máy độc tài với những lãnh đạo, cán bộ không có thực tài, thiếu
khả năng, đầy bằng cấp giả, cộng thêm tham nhũng, hối lộ thì không thể
nào tự họ làm cho đất nước hưng thịnh. Do đó, đảng CSVN sẽ không đủ khả
năng để ngăn chận sự nổi loạn của quần chúng nếu không bắt tay với Tàu
cộng để người dân có miếng ăn, có áo mặt, có điện, có xăng, có xe, có
mọi thứ mặt hàng gia dụng...
Các
lãnh đạo và cán bộ đảng sẽ không thể nào đi từ vô sản không bằng cấp
thành tiến sĩ tư bản đỏ bằng con đường "với sức mình sỏi đá cũng thành
cơm". Bài toán giải quyết và kết quả là một nền kinh tế hoàn toàn lệ
thuộc vào Tàu cộng - từ công trình xây dựng, nhiên liệu, điện lực đến
giao thông, hàng hóa, thực phẩm... Do đó, để thực hiện tham vọng bành
trướng, Bắc Kinh không cần phải huy động những sư đoàn tinh nhuệ vượt
biên giới Việt Tàu mà chỉ cần những công trình, công nhân Tàu giàn trải
khắp Việt Nam. Phương tiện xâm lược của Tàu cộng không cần phải là AK47,
chiến đấu cơ Chengdu J-20, tên lửa DF-31A mà là những cú phôn, những
quyết định bằng lời có thể dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán,
cúp điện cả nước và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam đi vào hỗn loạn. Nếu
nói rằng cai trị là nắm quyền quyết định hay ảnh hưởng lên vận mạng của
một quốc gia thì đảng CS Ba Đình đã từng bước trao cho đảng CS Bắc Kinh
quyền cai trị Việt Nam. Bắc Kinh không cần phải có một chính phủ người
Tàu đóng đô ở Ba Đình để thống trị nước ta.
Đem
giao cả nền kinh tế và biến nó thành một nền kinh tế nô lệ cho Tàu cộng
vẫn chưa đủ. Đảng CSVN đã "hòa tan" những hoạt động của quốc gia với
Tàu cộng trên mọi lãnh vực. Từ lãnh vực quân sự với đường dây nóng, với
các khóa đào tạo sĩ quan, sang đến lãnh vực tình báo, pháp luật, an ninh
xã hội, tòa án, hành chính... Tất cả đều có bóng dáng chỉ đạo của đảng
cộng sản Tàu. Việt Nam đã và đang bị cai trị bởi Bắc Kinh - chỉ có điều
là ở mức độ nào? 50%, 70%...? - không ai có thể biết chính xác - ngoài
thái thú Nguyễn Phú Trọng đang chiếm ngự cả hai ghế Tổng Bí thư đảng và
Chủ tịch Nước.
III. Những thử thách của phong trào dân chủ
Nếu
trước đây, phong trào dân chủ có một phương hướng chung trên con đường
độc đạo là đấu tranh dẹp bỏ độc tài, xây dựng dân chủ, bảo vệ và phát
triển nhân quyền thì họa mất nước có thể làm cho phong trào có nhiều ngã
rẽ chọn lựa khác nhau:
1. Kỳ vọng vào đảng độc tài thoát khỏi vòng nô lệ của Tàu cộng. Tên thời thượng là Thoát Trung.
2.
Kỳ vọng vào một lãnh đạo "sáng giá nhất" của đảng đứng lên lãnh đạo một
cuộc cách mạng nhung để thoát ách nô lệ Tàu cộng và hy vọng người này
đứng về phía nhân dân để cởi trói độc tài.
3.
Kiên trì tranh đấu để chấm dứt độc tài và xây dựng dân chủ và xem đó là
điều kiện nền tảng để có được sức mạnh toàn dân nhằm bảo vệ tổ quốc.
Chọn
lựa thứ nhất dành cho những người không thấy được toàn bộ bản chất cốt
lõi độc-tài-bán-nước của đảng CSVN, không nhớ hay không muốn nhớ đảng
này là thủ phạm dẫn đến tình trạng đất nước ngày hôm nay như đã trình
bày ở trên.
Chọn
lựa thứ hai thuộc về những người xem việc người dân Việt Nam có thể tự
làm nên một cuộc cách mạng là vô vọng. Do đó họ phải đánh cược số phận
của đất nước vào niềm tin dành cho một người đang nằm trong bộ máy độc
tài, người mà: (1) từ trước đến giờ thành tích nói và không bao giờ làm
đã không thua bất kỳ ai; (2) sự nghiệp chính trị và vị trí lãnh đạo bị
lệ thuộc vào tập đoàn tay chân mà những mất mát về quyền lợi, cũng như
phải đối diện với những đe dọa nếu chống Tàu sẽ quay sang chống lại thủ
lĩnh của họ; (3) cá nhân vẫn nằm trong sự chi phối của một cơ chế tập
thể lâu đời mà thành phần thân Tàu đang chiếm đa số.
Chọn
lựa thứ 3 là chọn lựa khó khăn nhất. Nếu 2 chọn lựa đầu chỉ phải chống
ngoại xâm và được sự hỗ trợ hay ít ra được yên thân bởi đảng độc tài thì
chọn lựa thứ ba là phải chống nội xâm lẫn ngoại xâm. Chọn lựa thứ ba
này đối diện với nhiều phản biện:
a. Lực lượng dân chủ còn quá yếu, sẽ bị tiêu diệt từ trứng nước.
b.
Sẽ không được sự ủng hộ nồng nhiệt từ quần chúng vì tâm lý sợ hãi lâu
đời và họ đang có chọn lựa an toàn với cá nhân của họ hơn. Đó là đứng
cùng với đảng (chọn lựa 1), hay ủng hộ một lãnh đạo "sáng giá" của đảng
độc tài (chọn lựa 2).
c, Đấu tranh chống độc tài bây giờ sẽ giúp cho Tàu cộng thêm cơ hội tràn qua xâm chiếm Việt Nam.
Hai điều a. và b. đã hiện hữu và nó cũng là thử thách của mọi đất nước bị độc tài cai trị cho đến ngày cách mạng thành công.
Điều
c. là ngụy biện của đảng và những người chọn lựa thái độ đồng lòng hay
mong đợi ở đảng. Trên thực tế: Tàu cộng không cần xâm lăng VN. Tàu cộng
không thể lấy một lý do gì để tràn qua chiếm trọn VN trong thời đại này.
Và sự xâm lăng cho dù có đi nữa sẽ không có hiệu quả bằng sự chấp nhận
ký kết sang nhượng chủ quyền của tập đoàn tay sai như đã trình bày ở
trên. Xin đọc thêm bài "Trung cộng: không cần phải đánh Việt Nam chúng
nó!!!???"
Do
đó, nếu thấy rõ độc tài+bán nước là khai sinh và căn cước của đảng CSVN
thì chúng ta chỉ có một chọn lựa duy nhất cho tương lai đất nước: Kiên
trì tranh đấu để chấm dứt độc tài và xây dựng dân chủ và xem đó là điều
kiện nền tảng để có được sức mạnh toàn dân nhằm bảo vệ tổ quốc.
Chọn
lựa này sẽ gặp những bất hợp tác hay tệ hơn là sự chống đối của những
người có cùng khát vọng nhưng khác phương thức (hy vọng đảng tự thay
đổi, hy vọng có một lãnh đạo thức thời trong đảng). Do đó, khi những
thành phần quan tâm đến vận mạng đất nước đi vào 3 ngả rẽ thì phong trào
dân chủ phải đối diện với những thử thách mới, chồng chất lên những thử
thách vốn đã có.
Làm thế nào để vượt qua?
Chúng
ta cần phải nhìn lại toàn bộ những nỗ lực vừa qua, lượng giá tình hình
chủ quan và khách quan để từ đó có một hướng chiến lược tổng thể phù hợp
với tình hình mới đang rất là đen tối.
Đây cần là một nỗ lực chung của nhiều người và xin hẹn các bạn ở một loạt bài khác trong tương lai.
Vũ Đông Hà
(Dân Làm Báo)
Không có nhận xét nào