Theo bản tin AFP hôm 27 tháng Giêng,
Thủ tướng Mahathir Mohamad quyết định hủy bỏ dự án đường sắt từ Tây sang
Đông trên lãnh thổ Malaysia, gọi tắt là ECRL, mà Trung Quốc trúng thầu
với trị giá 81 tỷ ringgit tương đương 19 tỷ 600 triệu đô la.
Thanh Trúc |
Đây
là dự án lớn ký với Trung Quốc từ thời chính phủ tiền nhiệm của Thủ
tướng Najib Razak, hiện đang bị truy tố vì tội tham nhũng.
Tin
cho biết Bộ trưởng Kinh tế Malaysia, ông Azmin Ali, nói rằng phát triển
tuyến hỏa xa từ Tây sang Đông là dự án quá sức tốn kém vào khi Malaysia
không đủ khả năng tài chính trong lúc này.
Vẫn
theo lời ông Azmin Ali, nếu không ngưng lại thì mỗi năm chính phủ phải
chi trả 500 triệu ringgit tiền lời mà Kuala Lumpur không kham nổi.
Trong
lúc giới phân tích bên ngoài quan ngại rằng quyết định của Thủ tướng
Mahathir Mohamad ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ song phương
Malaysia-Trung Quốc, người am hiểu tình hình ở Việt Nam, nơi có nhiều dự
án bạc tỷ vay vốn và thực hiện bởi tổng thầu Hoa Lục, lại bày tỏ sự
đồng tình với vị Thủ tướng cao tuổi của Malaysia,
Đối
với Giáo sư Tiến sĩ Lê Huy Bá, nguyên Viện trưởng Viện Khoa Học Công
Nghệ Và Môi Trường, Thủ tướng Mahathir Mohamad là một người sáng suốt:
"Sáng
suốt ở quyết định phải ngưng lại hơn là tiếp tục theo đuổi, bởi từ 16
đến 20 tỷ đô la mà chưa nói tới phát sinh thì mỗi năm như thế lấy đâu cả
mấy trăm triệu đô la để trả cho nhà thi công. Hai nữa cái thiệt hại của
họ là người Malaysia không được công ăn việc làm, vì người Trung Quốc
đưa cả thợ thuyền của họ kéo sang làm. Nghĩa là công việc làm cho người
bản địa là không có mà lại còn gánh năng nợ nần. Quyết định phải ngưng
lại là sáng suốt."
Nhà
quan sát Phạm Chí Dũng, từng làm việc trong ngành Nội Chính Đảng, cho
rằng quyết định của Thủ tướng Malaysia là một đòn đau cho Trung Quốc đối
với những dự án đầu tư ra nước ngoài mà không mang lại phúc lợi cho dân
bản địa: :
"Tôi
cho đấy là một quyết định tuyệt vời. Vào năm 2013, dự án đập thủy điện
Myitsone trị giá 7 tỷ đô la của Trung Quốc ở Myanmar đã phải ngưng lại
và từ đó tới nay không triển khai nữa. Và quyết định thứ hai mà Mahathir
Mohamad giáng vào Trung Quốc cho thấy không thể dùng tiền mua cả thế
giới như Trung Quốc thường khoe khoang, và Malaysia cũng không phải như
một số nước Châu Phi, không phải là Zimbabwe hay là Venezuela ở Châu Mỹ
La Tinh mà Trung Quốc có thể vung tiền vào các dự án đầu tư để chi phối
nền kinh tế và thao túng chính trị."
Theo
số liệu từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, trong một thập niên trở lại đây nhiều
nhà thầu Trung Quốc đã trúng thầu các dự án của Việt Nam. Quá trình
thực hiện cho thấy nhiều dự án lâm cảnh chậm trễ, đội vốn, kiện tụng.
Nguyên nhân trì trệ phần lớn từ phía Trung Quốc, điển hình như dự án đạm
Ninh Bình đã không thể tiến hành sau khi vay vốn và sử dụng nhà thầu
Trung Quốc. Kế đó là dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang
thép Thái Nguyên từ năm 2007 vì kéo dài khiến mức vốn tăng cao.
Nhiều dự án của ngành Công Thương cũng gặp cảnh gọi là ngậm đắng nuốt cay khi đối mặt và làm việc chung với nhà thầu Trung Quốc.
Một
trong những chuyện gần nhất và được nói tới nhiều nhất là dự án đường
sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông đã hai lần tăng vốn khiến một số nhà hoạch
định chính sách, các chuyên gia và các tổ chức dân sự lên tiếng bằng
nhiều bài phản biện trên mạng.
Dưới mắt Giáo sư Tiến sĩ Lê Huy Bá, đường sắt đô thị Cái Linh - Hà Đông là dự án kéo dài quá lâu :
"Quá
lâu mà còn đôi vốn lên nhiều lần, còn công nghệ thì theo tôi biết cũng
không phải là công nghệ tiên tiến. Người sử dụng kỹ thuật đưa sang đây
làm cũng không phải loại hảo hạng, có thể nói là người của công ty bản
địa thuộc hạng kém mới cho sang đây. Đấy là những yếu tố làm cho kéo
dài, đội vốn. Khi đấu giá thì họ đấu giá thấp, nhưng quá trình làm thì
cứ phát sinh và phát sinh mãi làm đội vốn lên nhiều và thời gian lâu."
Tháng
Mười Một năm 2018 vừa qua, một bản tin trên VietnamNet cũng cho hay vì
nhiều vấn đề trì trệ và bất ưng khiến nhiều chủ đầu tư phải chấm dứt hợp
đồng với phía nhà thầu Trung Quốc, thậm chí chấp nhận bị thưa kiện.
Câu
hỏi ở đây là tại sao Việt Nam không thể chấm dứt hay ngưng cho tiến
hành những dự án tốn kém đã ký với tổng thầu Trung Quốc như Myanmar lúc
trước và Malaysia mới đây? Kỹ sư Ngô Sĩ thiết, một thành viên nhóm Minh
Triết ở Hà Nội nhận định:
"Đất
nước người ta có độc lập trong cách hành xử, còn Việt Nam lãnh đạo phải
xứ lý những quan hệ rất khó khăn vì bị phụ thuộc vào nhiều thứ mà từ
góc độ ở ngoài mình không thể biết hết được. Cho nên đối với những dự
án có Trung Quốc đầu tư thì không dễ mà từ chối như là Malaysia hoặc một
nước khác.
Từ
việc khởi xướng dự án đến việc chọn nhà thầu đến việc vay vốn đến tiến
trình triển khai Việt Nam thực sự bị lệ thuộc trong việc đưa ra những
quyết định mang tính chất độc lập. Ngày trước ông Đinh La Thăng có thể
hiện ý kiến cá nhân là “đuổi nhà thầu Trung Quốc” mà hậu quả là ông bây
giờ đã bị bỏ tù, hầu như không ai dám mạnh bạo như ông Đinh La Thăng
nữa."
Đinh
La Thăng là cựu Ủy viên Bộ Chính trị, từng có thời là Bộ trưởng Giao
Thông Vận Tải và đã có những chỉ trích mạnh mẽ đối với nhà thầu Trung
Quốc. Ông Thăng bị kết án tù vào năm ngoái về tội cố ý làm trái gây hậu
quả nghiêm trọng.
Tế nhị và phức tạp là nhận xét của giáo sư Đào Công Tiến, cựu Hiệu trưởng Đại Học Kinh Tế Sài Gòn:
"Bỏ
một dự án? Có những cái không thể chuyển được đâu, còn cái chuyển được
thì cũng phải gỡ những cái vướng những cái phức tạp. Đấy là vì sao? Vì
nó liên quan đến những cái không thể giải quyết bằng phương án bỏ được,
phải tính toán nhiều thứ không thể nói dông dài trên máy được."
Nhà quan sát chính trị Phạm Chí Dũng phân tích thêm:
"Tại
sao không dừng được? Lý do đầu tiên thành thực mà nói là khó có bằng
chứng nhưng mà vô cùng nhiều dư luận cho rằng lãnh đạo hoặc giới chuyên
trách đã không quyết tâm, không dứt khoát và không dám làm rõ. Các
doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ liên kết liên doanh với Trung Quốc
thì đã nhận chung chi, và rất nhiều dư luận cho rằng Trung Quốc là một
quốc gia chịu chung chi, chịu hối lộ thoáng nhất thế giới. Rất nhiều
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt những doanh nghiệp có mối quan hệ đặc
thù với Trung Quốc, đặc thù ở đây có nghĩa là có lợi nhuận, và những dự
án liên quan tới ODA hoặc liên quan tới ngân sách nhà nước, thì dư luận
cho rằng không hiếm những doanh nghiệp này đã nhận tiền từ các doanh
nghiệp Trung Quốc và để cho Trung Quốc trở thành tổng thầu. Tôi cho rằng
vấn đề tham nhũng là lý do đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam không
dám bỏ những dự án với Trung Quốc.
Lý
do thứ hai thì cho tới nay Việt Nam không chỉ lệ thuộc vào kinh tế cho
tới những dự án đấu thầu có Trung Quốc mà còn bị chi phối bởi mặt chính
trị, thậm chí dư luận còn đồn đoán là Trung Quốc chi phối tới cấp trung
ương của đảng. Thế thì việc hủy bỏ những dự án lớn của Trung Quốc ở
Việt Nam thì rõ ràng vì lý do chính trị Việt Nam đã không dám làm, điển
hình là dự án bô xít Tây Nguyên."
Vẫn
theo báo mạng Vietnam.Net tháng Mười Một năm 2018, để nâng cao giải
pháp cũng như chấn chỉnh công tác quản lý lãnh vực đầu tư của Trung Quốc
vào Việt Nam thông qua các dự án lớn nhỏ, từ năm 2015 Việt Nam đã ban
hành nhiều chủ trương đồng thời sửa đổi Luật Đấu Thầu và các văn bản
liên quan.
Bên
cạnh đó, chính phủ và các cơ quan chức năng cũng tăng cường kiểm tra,
giám sát và xử lý sai phạm mà theo báo cáo thì đã có chuyển biến tích
cực.
Tuy
nhiên theo các nhà quan sát và các tổ chức dân sự ở trong nước, minh
bạch mới là cần thiết chứ không chỉ những qui định trên giấy mà đủ, và
giải pháp nào cho những gói thầu với Trung Quốc bị trì trệ và đội vốn
vẫn còn là câu hỏi phía trước.
Thanh Trúc
(RFA)
Không có nhận xét nào