Đất lành chim đậu. - Thành ngữ VN
Đất Lành |
Tôi
thấy lũ trẻ “phượt” ào ào nên cũng vội vã phóng theo (chớ ở
nhà hoài buồn chết mẹ) dù chả có chút ý niệm gì, về những
nẻo đường sắp tới.
Đi đâu đây cà?
Ngần
ngừ chút xíu rồi tôi quyết định là mình nên khởi sự bằng
cách trở lại một chốn đã quen – Thái Lan – nơi mà tôi bắt đầu
cuộc đời tị nạn, gần bốn mươi năm trước!
Vì
không biết rằng tiếng anh có từ ngữ “guest house” nên tôi gu gồ
(đại) “bangkok hotel” và tìm ra một cái khách sạn, ở giữa thủ
đô, với giá 40 U.S.A dollar mỗi ngày. Kể cũng chả mắc mỏ gì,
nếu so với loại phòng bình dân ở California.
Ngủ
qua đêm, sáng hôm sau đi lơn tơn mới thấy trên cùng một dẫy phố
nhưng có rất nhiều nhà trọ mà chỉ phải trả 18 Mỹ Kim hà. Thế
là tôi lật đật xách ba lô, chạy sang chỗ mới.
Qua
đêm sau nữa, tôi “khám phá” ra rằng không chỉ ở mặt tiền mà
trong những con hẻm (lủa tủa) hai bên cũng có cả đống guest
house. Giá cả, tất nhiên, nhẹ nhàng hơn thấy rõ: mười hai đô la
chẵn. Còn nếu “chịu” ở chung (ở dorm) với vài ba mạng nữa thì
chỉ nửa giá đó thôi – breakfast included!
Tôi
“chịu” liền. Tưởng gì chớ “chung đụng” thì có hề chi. Số
trại lính, trại tù, trại cải tạo, trại tị nạn… mà tôi từng
sống qua – trên những cái giường đôi – nếu chỉ tính bằng đầu
ngón tay, không kể luôn ngón chân, dám thiếu!
Thêm
vài ba bữa, sau khi la cà với một mớ đồng hương (mấy anh chị
tị nạn, cùng với những em nhỏ chạy bàn, phụ hồ, bán kem, bán
nước dừa, bán trái cây… ) tôi được cho hay là có rất nhiều cao
ốc, ở ngoại ô Bangkok, phòng thuê hàng tháng chưa tới ba ngàn
tiền baht – tròm trèm chỉ cỡ 100 MK thôi – không tính wifi và
điện nước.
Loại
chung cư này thường cao tới bẩy tám tầng, nằm cạnh bên nhau,
tạo nên những con hẻm nhỏ song song, vô cùng xầm uất. Hàng quán
san sát, thức ăn ê hề, rẻ rề, ngon miệng, và chưa nghe có ai
bị ngộ độc phải vô nhà thương hết trơn hết trọi. Vào giờ cao
điểm, xe cộ – đôi khi – phải di chuyển cùng với tốc độ của…
khách bộ hành nhưng không nghe tiếng còi và cũng không có tiếng
người chèo kéo/mời mọc hay cãi cọ gì ráo trọi.
Tôi
dọn vô thử. Ở tuốt trên tầng sáu. Tuy thang máy chậm, phòng
hơi chật và hành lang hơi tôi tối nhưng sạch sẽ, và yên tĩnh
đến không ngờ. Cũng như người Lào, người Thái không ồn. Tiếng
duy nhất mà tôi nghe suốt ngày, từ sáng sớm đến chiều, chỉ là
tiếng chim thôi.
Khát: ảnh tnt.
Dân
Thái tin rằng chim chóc mang lại điềm lành nên để chúng được
sống hoàn toàn tự do, và tha hồ ca hót. Nhiều loại chim lắm.
Có con líu lo, có con rủ rỉ, có con tíu tít không ngừng nhưng
tôi nhận ra ngay tiếng ríu rít quen thuộc của những con se sẻ.
Loài
chim này có lẽ hiện diện khắp địa cầu. Tiếng kêu thân quen
của chúng, trong những lùm cây, vào lúc chiều tàn, đã nâng đỡ
cho tâm hồn đa cảm và yếu đuối của tôi – không biết bao lần –
suốt cả cuộc đời lưu lạc. Cứ nghe se sẻ huyên náo chuyện trò
là tôi lại trạnh nhớ tiếng chim ngày cũ, dù bao kỷ niệm (không
mấy êm đềm) đều đã phôi pha.
Từ
một trại cải tạo heo hút, tôi nhận được giấy “tạm tha” cho
trở về nhà, vào năm 1978. Mùa mưa nào mà Đà Lạt chả buồn
nhưng mùa mưa năm ấy, tôi không chỉ buồn mà còn đói nữa. Ở tù
bị đói, đã đành; ở nhà, ai ngờ, cũng đói!
Lòng
buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi không biết làm chi với cuộc
đời mình nên đành chỉ nằm nghe mưa và chờ nắng. Mong có chút
xíu nắng thôi cho trời bớt lạnh, cho bầy se sẻ túa lên mái nhà
(âu yếm rỉa lông, rỉa cánh cho nhau) và tíu tít mừng vui, đón chào
nắng ấm.
Đà
Lạt hay có những cơn bão rớt, và những trận mưa dầm dề lê thê
kéo dài cả tuần chứ không phải cả ngày. Tuy thế, vẫn có
những lúc mặt trời cũng lấp ló ở một nơi nào đó. Nắng cũng
làm sáng, và làm ấm phố phường đôi chút nhưng tiếng chim kêu
rộn ràng (như những ngày xưa cũ) thì không còn nữa.
Thỉnh
thoảng mới có tiếng kêu thương lạc lõng của một con chim se sẻ,
trên mái ngói, rồi tiếng đáp trả nho nhỏ buồn buồn (nghe cũng cô
đơn và não lòng không kém) từ một căn nhà xa xa nào đó. Cả một dãy
phố mà dường như chỉ còn sót vài đôi chim bé bỏng thôi.
Cái
đói của chính mình giúp cho tôi đoán được chuyện gì đã xẩy
ra cho loài chim này trong mấy năm qua. Sự khắc nghiệt của chế
độ hiện hành, hoá ra, không chỉ ảnh hưởng riêng chi đến con
người.
Tôi
không hiểu là loài se sẻ chết dần vì đói, hay chúng rời đi
đến một phương trời nào khác, bỏ tôi ở lại với đói lạnh và
buồn. Buồn quá, tôi cũng đi luôn và chưa bao giờ lần dò trở về
chốn cũ.
Gần
nửa thế kỷ đã qua, không biết bây giờ thì bầy sẻ nhỏ ra sao
nhưng đồng bào hay đồng hương của tôi thì vẫn vậy – vẫn cứ
tiếp tục ra đi bằng mọi giá và mọi cách. Ủa, chớ “bến bờ tự
do” có gì quyến rũ mà dân Việt – từ thế hệ này sang thế hệ
khác – cứ mãi khát khao đi tìm mãi thế? Tôi đang sống ở Thái
Lan, một đất nước “tự do” đây, có thấy chi hấp dẫn lắm đâu?
Chả
qua chỉ là một căn phòng nho nhỏ, vừa đủ cho đôi vợ chồng son,
với những tiện nghi căn bản – trong một khu chung cư ở ngoại ô –
mà số tiền phải trả hàng tháng chỉ bằng một phần tư lợi
tức của một người công nhân, dù với đồng lương tối thiểu.
Nơi
đây, tuy phần lớn chỉ là những người lao động có lợi tức
thấp nhưng đời sống riêng tư của họ được tôn trọng hoàn toàn
và tuyệt đối. Không có ông công an khu vực, bà tổ trưởng dân
phố, hay chị hội trưởng phụ nữ (dấm dớ) nào lai vãng cả!
Cũng chả thấy bóng dáng đám công an giao thông, cảnh sát cơ
động, hay lực lượng dân phòng lảng vảng (xớ rớ) kiếm ăn ở
chung quanh!
Dọc
theo mấy dẫy chung cư là một dòng sông nhỏ, nước tuy bẩn nhưng
cá vẫn còn sống được. Kiên nhẫn ngồi câu, chừng hai ba tiếng,
cũng chỉ kéo được hơn chục chú cá rô con.
Phần
lớn bờ sông là đất trống, bỏ hoang, mọc tá lả đủ thứ loại
trái cây thông thường của vùng nhiệt đới: vú sữa, mít, ổi,
chuối, xoài, mãng cầu, đu đủ… Với tay phía nào cũng có thể
bẻ được một chùm tầm ruột, vừa mới chín hườm hườm, hay một
quả khế (không biết chua/ngọt) vàng ươm.
Bên
kia bờ sông – đôi chỗ – cũng thấy nhô lên một toà biệt thự kín
cổng, cao tường. Còn phần lớn đều chỉ là những căn nhà nhỏ,
vách ván đơn sơ, sắc mầu lộn xộn. Từ ngoài nhìn vào cũng có
thể thấy hết đồ vật luộm thuộm bên trong: giường tủ, ghế bàn,
tuyềnh toàng, cũ kỹ.
Cái
nghèo cũng được bầy ra qua những mâm cơm chiều thanh đạm, dọn
ngay trước sân nhà: cá khô, rau luộc, rổ đậu, đĩa trứng chiên
nhỏ xíu, và mấy xâu thịt nướng mỏng tang, cùng vài chai bia
(hoặc rượu) địa phương – ma dze in Thai.
Tuy
thế, trông người Thái nào tôi cũng cảm được là họ đang sống
rất bình an. Nỗi an bình của một của cả một dân tộc chưa từng
“dám” đánh thắng một đế quốc to nào ráo, đế quốc nhỏ cũng
chưa!
Dân
Thái – chắc chắn – chưa bao giờ nghe nói đến những thứ (thổ
tả) đại loại như chủ nghĩa mác xít lê nin nít vô địch muôn năn,
cải cách ruộng đất, hợp tác xã, đánh công thương nghiệp, đổi
tiền, vượt biên, trại cải tạo, nợ công, lạm phát, giải phóng
mặt bằng, vỡ quĩ bảo hiểm xã hội, sự cố môi trường biển, Hội
Nghị Thành Đô…
Cộng
lại tất cả những cái “chưa” này của người Thái Lan thì thành
một giấc mơ xa vời (và mỗi lúc một thêm xa) của dân tộc chúng
tôi!
Tưởng Năng Tiến
(Blog Tưởng Năng Tiến)
Thật là đất lành, khác hẩn với ...đất dữ của cộng sản.
Trả lờiXóa